Thứ Năm, 22 tháng 8, 2013

Vĩnh Tế - con kinh quốc phòng thời nhà Nguyễn.

Kinh Vĩnh Tế nằm tại địa phận hai tỉnh An Giang  Kiên Giang. Đây là một kinh đào dài nhất mang ý nghĩa chiến lược do triều đình phong kiến nhà Nguyễn thực hiện. Hiện tại so với các con kinh đào khác trong vùng, ta thấy nó không sâu rộng lắm, song việc đào được một con kinh đi qua Thất Sơn hiểm trở và những vùng đất trủng phèn mặn thuở xưa là một kỳ công của tiền nhân thuở ban đầu mở cõi.

Ở thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang, nơi bắt đầu kinh Vĩnh Tế tại ngả ba nối vào sông Châu Đốc, thuộc ấp Vĩnh Tân, xã Vĩnh Nguơn. Từ đây kinh Vĩnh Tế chạy song song với đường biên giới Việt Nam - Campuchia. Điểm nối giáp với sông Giang Thành, thị xã Hà Tiên. Đoạn từ Tịnh Biên đến Hà Tiên dài hơn 60 km, có nhiều chỗ khá hẹp, nhưng cũng có nhiều chỗ đang sạt lở. 

 Tại ngả ba bờ tây sông Châu Đốc có một ngôi đình xưa, sát đường Tây Xuyên, một con đường nhỏ qua biên giới, gọi là đình Vĩnh Nguơn được trùng tu năm 1929. Theo một bô lão ở địa phương ngày cúng Kỳ Yên 15, 16 tháng chạp hàng năm đều có tế quan Thoại Ngọc hầu. Căn cứ vào ghi chép trong Thực lục, địa điểm này chắc chắn là nơi khởi công, là đầu nguồn của kinh Vĩnh Tế.
Đình Vĩnh Ngươn



1. Đại Nam thực lục chép, tháng 9, Gia Long năm thứ 18 (1819), vét đào đường sông Châu Đốc thông đến Hà Tiên; Cho tên là sông Vĩnh Tế. Mục đích ban đầu của việc đào kinh là “Vua thấy Vĩnh Thanh và Hà Tiên tiếp giáp với Chân Lạp, việc công tư đi lại, trước không có đường thủy, bàn muốn nhân sông Châu Đốc mà đào cho thông suốt”. Vua Gia Long xuống dụ cho thành thần Gia Định tiến hành đo đạc tính từ phía Tây đồn Châu Đốc, sai Trấn thủ Vĩnh Thanh Nguyễn Văn Thoại và Chưởng cơ Phan Văn Tuyên đốc suất dân phu và binh dân đồn Oai Viễn 5.500 người, Đồng Phù (quan nước Chân Lạp) quản suất dân Chân Lạp 5.000 người, tháng 12 năm 1819 khởi công đào. Dân phu đào kinh bất kể người Việt hay người Chân Lạp cùng với binh lính đồn Oai Viễn mỗi người được cấp 6 quan tiền và 1 phương gạo mỗi tháng.  

Tên kinh được đặt bao giờ? Căn cứ Thực lục, việc đặt tên là sông Vĩnh Tế” được vua đặt Gia Long ngay từ lúc ra lịnh khởi công, chứ không phải mãi đến khi công trình hoàn thành mới được đặt tên. Có lẻ việc đặt tên kinh Vĩnh Tế là một phần khích lệ tinh thần mà vua Gia Long dành cho Thoại Ngọc hầu sau khi hoàn thành kinh Đông Xuyên (tức Thoại Hà) và trước khi bắt tay vào một công trình quan trọng trong vùng.

Từ lúc khởi công kinh Vĩnh Tế có nhiều lần phải tạm ngưng thi công.

Núi Thâm Đưng-bên kia bờ Vĩnh Tế
Lần tạm ngưng lần thứ nhất vào năm Canh Thìn (1820). Lần này vua Minh Mạng mới lên ngôi, thấy việc đào kinh đã tròn năm, người người khó nhọc, nên ra dụ tạm hoãn và cấp tiền, vải cho người chết, cấp thuốc men cho người ốm. Bấy giờ con kinh đã hoàn thành được 3.224 trượng, còn lại 9.992 trượng. Đến tháng giêng năm sau, (1821) vua Minh Mạng lại hoãn việc đào kinh. Bấy giờ vùng Hà Tiên-Châu Đốc vừa xảy ra nạn dịch lớn, vua muốn “để cho dân nghỉ ngơi”. Kinh Vĩnh Tế lúc này tuy chưa đào xong, nhưng đường nước nhỏ cũng đã thông.
Tháng 10 năm Nhâm ngọ (1822) vua Minh Mạng thấy công việc đào kinh cần phải khẩn trương hơn, nên ban d nhắc nhỡ.  Lúc này kinh Vĩnh Tế đã hoàn thành hơn 10.500 trượng chỉ còn hơn 1.700 trượng. Đến tháng 2 năm Giáp thân (1824), kinh Vĩnh Tế được lệnh đào tiếp. Bấy giờ Phó Tổng trấn Trần Văn Năng xin để lại quân dân hai trấn Phiên An, Biên Hoà để đào đá xây thành. Vua Minh Mạng không đồng ý và ra chỉ dụ: “Còn như sông này, liền với tân cương, rất quan hệ đến việc biên phòng, so với việc xây thành đằng nào cần hơn ?” Với quyết tâm cao độ của nhà vua, đến tháng 5 năm Giáp Thân (1824), thì kinh Vĩnh Tế hoàn thành. Vua Minh Mạng nói rằng, đào con sông ấy thực là lợi ích muôn năm vô cùng về sau, bèn sai Hữu ty lo việc dựng bia ghi dấu đồng thời ra lịnh ban thưởng cho Thoại Ngọc hầu cùng các quan có công và quốc vương Chân Lạp.  

2. Không chỉ có công trong việc đào kinh Vĩnh Tế, công lao của Thoại Ngọc hầu trong giai đoạn này rất lớn.

Thoại Ngọc hầu Nguyễn Văn Thoại sinh năm 1761 là con ông Nguyễn Văn Lượng và bà Nguyễn Thị Tiết. Ông Nguyễn Văn Lượng người thôn An Hải, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam, làm chức Tư thừa, mồ mả còn tại đất Quảng. Còn bà Nguyễn Thị Tiết là con của ông Nguyễn Khắc Tuân và bà Phạm Thị Thấy ở cù lao Dài (Vĩnh Long). Giả thuyết, Nguyễn Văn Thoại có thể được sinh ra tại Quảng Nam, cha mất lúc ông còn nhỏ. Sau khi cha mất, ông theo mẹ vào Nam lập nghiệp. Cũng có thể Nguyễn Văn Lượng vào Nam cưới vợ lập nghiệp và sinh ông ra tại cù lao Dài, nhưng sau đó về Quảng Nam và mất ở đó. Theo tư liệu của ông Trương Ngọc Tường thì bà Châu thị Vĩnh Tế là cháu gái ông Châu Vĩnh Huy và bà Đỗ Thị Toán, vào cuối thế kỷ XVIII đã đến lập nghiệp tại thôn Thái Bình (nay thuộc xã Thanh Bình, huyện Vũng Liêm). Ông Châu Vĩnh Huy là người có công xây dựng đình chùa, được tôn Hậu hiền. Còn họ Nguyễn của Thoại Ngọc hầu đến làng này muộn hơn.
Năm 1817, Nguyễn Văn Thoại về làm Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh, thấy việc giao thông thương mại ở vùng đất này gặp nhiều khó khăn, nên ông đã tâu với triều đình cho tiến hành đào kinh Đông Xuyên, khởi công vào đầu năm 1818, nối rạch Đông Xuyên ở Tam Khê (Ba Rạch) với ngọn Giá Khê (Rạch Giá). Công trình này hoàn thành chỉ trong một tháng. Kinh đào xong, ông được vua Gia Long khen ngợi và cho phép lấy ông lấy tên mình để đặt tên cho con kinh mới đào là Thoại Hà. Ngoài ra, ông còn huy động hơn 3.000 dân binh đắp con đường từ Châu Đốc đến núi Sam, khởi công từ ngày 20 tháng chạp năm Bính Tuất,1827) và hoàn thành ngày 15-5 năm Đinh Hợi, 1828. (theo An giang xưa và nay của Tân Việt Điểu - Văn hóa nguyệt san số 39-1959).

3. Bia Vĩnh Tế dựng tại núi Sam vào mùa thu năm Mậu Tý (1828), chép việc lập làng, mở ruộng di dân, việc vua (Gia Long) lấy tên Thoại Ngọc hầu phu nhân (tức bà Châu thị Vĩnh Tế) đặt tên cho kinh đào.

Bên cạnh, vua còn lịnh tổ chức lễ tế các binh lính và sưu dân đã bỏ mình trong việc đào kinh và soạn “Tế nghĩa trủng văn” đọc trong buổi lễ. Tế nghĩa trủng văn còn gọi là bài “Thừa đế lịnh, tế cô hồn Vĩnh Tế tân kinh”. Bài văn tế có 38 dòng, Nguyễn Văn Hầu cho biết ông tìm được bài văn này hồi năm 1960 do miêu duệ của cụ Nguyễn Văn Khuê (Huấn đạo Khuê) cung cấp, nhưng tác giả vẫn hồ nghi không biết có đúng nguyên văn, vì chưa tìm được bài văn tế xưa nào khác để kiểm chứng.

Mở đầu bài văn tế bằng lời văn mô tả đầy âm khí “Thiên nhai lạc lạc, khách trủng luy luy/Vân phong cổ mộ, nguyệt điếu tàn bi”. Nội dung bài văn tế đã xác nhận: Việc đào kinh đã làm nhiều người bỏ mạng và trong số ấy có cả phụ nữ “Vi nam vi nữ, tánh thậm danh thùy”

Dịp tế lễ, thừa lệnh vua, Thoại Ngọc hầu đã làm một cuộc cải táng tập thể, có lẻ rất qui mô, nhưng chưa biết địa điểm hành lễ. Tác giả Nguyễn Văn Hầu căn cứ vào câu cuối bài văn tế “Sam sơn chi tây hề khả dĩ toại khu trì” và đoán rằng địa điểm hành lễ có lẻ là bên triền phía tây núi Sam, chỗ có cắm bia “Đặc tứ Vĩnh Sơn bia ký” và cũng là nơi có nhiều nấm mộ. Cho đến nay, việc tế lễ các vong hồn bỏ mạng trong cuộc đào kinh vẫn còn được duy trì ở địa phương này, người dân gọi là lễ “Tống gió”.

Men theo con lộ nhựa dọc bờ kinh Vĩnh Tế từ Châu Đốc đến Hà Tiên mới thấy còn kinh vẫn còn giá trị lớn về các mặt thủy lợi, giao thông và quốc phòng, thể hiện sức lao động xây dựng đất nước của dân Việt và cho thấy tầm nhìn chiến lược quốc phòng của triều Nguyễn. 

Ngọc Phan - Hoàng Phương

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét