Đó là ý kiến của nhà “Hà Tiên học” Trương Minh Đạt.
Ông bảo đây là sự lầm lẫn đáng tiếc xảy ra do các tác giả Đông Hồ và Mộng
Tuyết. Điều này ông đã có viết bài đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử hồi năm
1999. Tuy nhiên cũng khó có thể thay đổi bởi sự việc đã “lộng giả thành chơn”
từ lâu.
1.Tài liệu để ông
dẫn giải chứng minh cho ý kiến của mình là các sách Gia Định thành thông chí
của Trịnh Hoài Đức, Đại Nam thực lục chính biên của Quốc sử quán triều Nguyễn,
Nam kỳ lục tỉnh dư địa chí của Duy Minh Thị…Và gần nhất là tài liệu Địa phương
chí Hà Tiên (Monographie de la Province d’Hatien) in năm 1901 của người Pháp.
Đặc biệt là sách
Gia Định thành thông chí mô tả khá chi tiết “Châu Nham tục danh là Bãi Ớt, cách
phía đông trấn 22 dặm rưởi, đỉnh núi tròn xoe, sườn đá chênh vênh chạy thẳng
đến bờ biển, có những ghềnh rạng gồ ghề, vũng sâu bùn cát bao bọc hai bên tả
hữu. Trong vũng có đá tinh quang, ở dưới có nhiều con sò sọc đỏ. Tương truyền
khi Mạc Cửu còn nhỏ đi đến dưới nham ấy bắt được ngọc châu kính thốn quí báu vô
giá. Cửu đem dâng cho vua. Bờ nham có vực sâu làm chỗ cá tôm tựa ở, chim cò và
le le tới ăn bơi lội cả bầy”. Tư liệu gần nhất xác nhận địa danh này là quyển Địa
chí Hà Tiên do người Pháp biên soạn năm 1901, ghi vắn tắt “Đồi Châu Nham trong
cụm núi Bãi Ớt, xưa che giấu một viên ngọc trai quí vô giá”.
Thời Minh Mạng ở đó có lập một cái đồn binh,
cử ra 50 người đi xuống khu vực Bình An – Hòn Chông để mở ruộng sản xuất, cung
cấp lương thực cho đồn Châu Nham. Sách Đại Nam thực lục chính biên có ghi lại
việc Trần Chấn chọn được vùng thôn Bình An, gần đồn Châu Nham có đất bỏ không,
có thể cày cấy được, bèn liệu định thế rộng hẹp, xin vát linh cơ Hà Tiên 50
người giữ đồn Châu Nham, 100 người đến đó cày cấy, lập đồn điền Bình An, nay
thuộc khu vực xã (Bình An) và Dương Hòa.
Đây đích thực là
Châu Nham trong bài thơ Châu Nham lạc lộ của Mạc Thiên Tích.
Ông Trương Minh Đạt
cho biết, trong sách Minh Mạng chính yếu có một câu ý nói Châu Nham ở núi Đá Dựng.
Ý đó làm người đời sau làm căn cứ khẳng định Châu Nham là Đá dựng.
Châu Nham chỗ Mạc
Cửu tìm thấy viên ngọc cũng là Bãi Ớt. Sự lầm lẫn kéo dài đến các thế hệ nhà
Nho đời sau rồi được tiếp tục củng cố bởi những bài báo trong những năm 1930.
Trong bài ký Chơi Châu Nham của Đông Hồ đăng trên Đông Pháp thời báo năm 1926
có đoạn mở đầu Châu Nham lạc lộ tục gọi là núi Đá dựng, là một cảnh trong Hà
Tiên thập cảnh vịnh của Mạc Thiên Tích. Bài viết này có nhiều sai lạc cả về vị
trí của núi Đá dựng và ý nghĩa của hai chữ châu Nham. Bài này được đăng lại
trên Nam Phong tạp chí tháng 9 năm 1930 rồi thời gian sau nhà thơ Đông Hồ và
Mộng Tuyết ra quyển sách “Hà Tiên thập cảnh - Đường vào Hà Tiên”, một quyển
sách bỏ túi dạng giới thiệu du lịch do nhà xuất bản Bốn Phương xuất bản năm
1960, rồi đến năm 1970, bộ giáo trình Văn học miền Nam – Văn học Hà Tiên được
nhà xuất bản Quỳnh Lâm, Sài Gòn in năm 1970 cùng một số bài viết trên các báo ở
miền Nam thời đó đều ghi theo những điều mà nhà thơ Đông Hồ viết “Châu Nham là
núi Đá Dựng”, tiếp tục “quảng bá” sự sai lầm đó cho đến ngày nay.
2. Đồn Châu Nham do Trần Chấn thiết lập vào năm
Minh Mạng thứ 16 (1835) tại khu Bãi Ớt, xã Dương Hòa. Căn cứ thư tịch thì đồn
Châu Nham thời Nguyễn quân số không đông, kể cả lính thuộc “dân quân tự vệ” -
tức lính đồn điền, chắc cũng khoảng độ vài trăm, trong đó hai phần ba quân số
phải làm nhiệm vụ sản xuất lương thực, chốt giữ đồn thường trực có khoảng 50
lính. Tuy nhiên đây là địa đầu thường
xuyên đối phó với giặc cướp, bọn thổ phỉ và xâm lược. Theo ông Trương Minh Đạt,
khi lập đồn điền đầu tiên tại Hà Tiên (như đã nêu trên), đồn Châu Nham có khoảng
100 lính người Phiên (Khmer) đóng giữ. Khi thổ phỉ các nới nổi lên, người Phiên
làm phản, chiếm đồn Châu Nham làm cứ điểm chống lại triều đình. Thực lục ghi
chép trận đánh này như sau: Năm Minh Mệnh năm thứ 21 (Canh Tý, 1840), bọn thổ
phỉ ở Hà Tiên có hơn 2000 tên, đánh vây đồn Chu Nham rồi đốt đài Hoả Phong ở
núi Lộc Tỵ (Mũi Nai), đánh trống reo hò tiến sát đến luỹ dài.
Giặc chiếm giữ đồn
Chu Nham. Quyền thự Tổng đốc An - Hà là Dương Văn Phong, đem binh chia đường
đánh dẹp. Phó vệ uý thủ vệ Định Tường Nguyễn Văn Điệp; Cai đội thuỷ vệ An Giang
Ngô Thiên Tường và biền binh tất cả hơn 70 người bị chết trận, súng nhỏ súng
lớn bị thất lạc nhiều. Tháng 10 cùng năm, Dương Văn Phong đã thu lại đồn Chu
Nham, bọn giặc từ sau khi vòng vây ở Quảng Biên bị tan vỡ, đều đến đấy tụ họp đến
3000 người. Phong bắt phá chằm rậm/rừng hoang, bắc cầu, rồi đích thân chỉ huy
900 binh dũng, chia đường đồng loạt tiến quân. Giặc dựa chỗ hiểm chống cự lại,
quân ta không tránh gươm giáo, tranh nhau lên trước luỹ, hương dũng là Nguyễn
Văn Tuấn xông pha trong trận, chém được thủ cấp tên đầu sỏ giặc là Nha Tiên,
bọn giặc khiếp sợ, quan binh thừa thế, hoặc lấy dao chém, hoặc lấy giáo đâm,
giết chết và đâm bị thương vô kể, giặc bỏ đồn chạy tan, thu được súng và khí
giới rất nhiều.
Năm Thiệu Trị năm thứ nhất (Tân Sửu, 1841), vào
tháng 3, bọn thổ phỉ ở Hà Tiên lại vây đánh đồn Châu Nham, quân có đến hàng
nghìn. Án sát Huỳnh Mẫn Đạt cho Lãnh binh Nguyễn Văn Thai và Phó quản cơ Dương
Văn Thuận đem quân đến hiệp sức giữ đồn
rồi sai người phi báo cho thành Trấn Tây phái thêm quân tiếp viện. Nhưng quân tiếp
viện chưa đến, bọn giặc đã đến núi Tô Châu, mưu đồ uy hiếp tỉnh lỵ. Trong thành
thấy số quân ít, không đủ sai phái, Văn Thuận từ đồn Chu Nham về tỉnh, dọc
đường bị giặc giết chết. Bọn giặc lại đem hết quân vây quanh bốn mặt. Án sát
Huỳnh Mẫn Đạt bèn bắt những quân và dân ở quanh tỉnh, phân công Hà Văn Củ hết
sức chống giữ, bắn ra, bọn giặc nhiều kẻ bị thương và chết. Bọn giặc phải rút
lui.
Sau những trận giặc
giã liên miên, đến tháng 11 năm Tân Sửu (1841), Lĩnh Tuần phủ tỉnh An Giang là
Nguyễn Công Trứ tâu với triều đình xin ý kiến bố trí lại lực lượng biên phòng:
“Hà Tiên là đất xung yếu, phía đông giáp tới Đông Hồ, đông nam tiếp giáp với
biển, có thể dựa vào thế hiểm trở thiên nhiên ấy được, duy hai mặt Tây, Bắc,
đường bộ đi thông ba ngả, mà đồn Chu Nham cách tỉnh vài chục trượng, chỗ luỹ
đất đặt súng cùng đối diện nhau, bắn ra không tiện. Xin cho đặt vài ba cỗ súng
lớn ở trên núi Bình Sơn trong luỹ để khống chế mặt Tây, Bắc. Trên núi Tô Châu xin
dựng một vọng lâu, đặt 2 cỗ súng lớn để khống chế mặt Đông Nam. Và triệt bỏ đồn
Chu Nham để cho đỡ bớt binh lực”. Vua nghe theo lời tâu ấy.
Trở lại núi Đá Dựng. Hà Tiên có hai thạch
động, một là Thạch động ngoài, sát đường lên cửa khẩu Xà Xía và hai là núi Đá Dựng.
Núi Đá Dựng có nhiều hang động, xưa có một nhà sư trụ trì chùa Tiên Sơn đã liên
tưởng các hang động và hình thù cây đàn đá (nay không còn) rồi gán ghép vào câu
chuyện Thạch Sanh Lý Thông cho ra một dị bản “Thạch Sanh chém chằn” hấp dẫn
không kém bản Thạch Sanh Lý Thông ở các tỉnh phía bắc.
Câu chuyện Thạch Sanh
Lý Thông có nguồn gốc từ bên Ấn độ, xâm nhập vào văn hóa dân gian Kampuchia rồi
sang Việt Nam .
Chuyện dân gian có trước rất lâu, ta không có cơ sở kết luận nó là độc bản duy
nhất ở Hà Tiên, ông Đạt kết luận.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét