Tây An cổ
tự tọa lạc
tại ngã ba, bên chân núi Sam, thuộc phường Núi
Sam, thị xã Châu Đốc. Một ngôi chùa có lối kiến
trúc khá độc đáo, kết hợp hài hòa hai dòng văn hóa Việt -Chăm, được Bộ Văn Hóa xếp hạng là
"di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia từ năm 1980. Sự ra đời của ngôi chùa mang dấu
ấn về chính sách văn hóa của triều Nguyễn “khai hoang lập chùa”. Đây cũng là
nơi gắn với hành trạng của người sáng lập Bửu Sơn Kỳ hương, do đó dân gian thường
gọi ông Đoàn Minh Huyên là Phật thầy Tây An.
Trong kế hoạch khai hoang lập đồn điền và các chính
sách an dân, các quan nhà Nguyễn như quan đại thần Nguyễn Tri Phương…đã có sự thỏa
thuận với các hòa thượng các tông phái Phật giáo, đồn điền lập đến đâu thì xây cất chùa chiền đến
đó để lo đời sống tinh thần, giúp dân an cư lạc nghiệp. Dường như
chùa Tây An ở núi Sam – Châu Đốc ra đời nhằm thực hiện nhất quán chủ trương
này.
1. Lịch sử
khai sơn Tây An tự bắt đầu từ quan Tổng đốc An Hà Doãn Uẩn. Doãn Uẩn (1795-1850) là một danh thần thời Nguyễn, phụng
sự ba đời vua liên tiếp: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Sinh thời,
ông là một trong những trụ cột của triều đình, trấn giữ vùng biên cương tây
nam, suốt những năm trị vì của vua Thiệu Trị. Ông từng được giữ chức Lang trung
bộ Hộ, Tham tri bộ Hộ và Án sát Vĩnh Long. Tham gia trấn áp các cuộc nổi dậy
và chống ngoại xâm cũng như các chính sách hòa hợp dân tộc. Công trạng của ông được vua Tự Đức cho khắc
bia ghi chiến tích, đặt tại Võ miếu.
Vào năm 1842, quân Xiêm lại đem
quân xâm lấn biên cương nước ta. Triều đình sai Doãn Uẩn (1795-1850) cùng các
quan Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Hoàng… đem quân đánh dẹp. Năm 1845, quan quân triều
đình đã chiếm lại được Hà Tiên và sau trận này Doãn Uẩn được phong làm Tổng
đốc Mưu lược tướng, kiêm lý khu vực An Hà (An Giang và Hà Tiên). Trong thời
gian kiêm lý An Hà từ 1845 đến 1848, ông đã chủ trì tu sửa và xây mới nhiều
chùa chiền trong vùng, trong đó có chùa Tây An.
Ngày 21 tháng 11 âm lịch năm Kỷ Dậu (1850),
ông bệnh mất tại An Giang và được truy tặng hàm Hiệp biện Đại học sĩ. Bài vị của
ông được vua cho đặt ở đền Hiền Lương cùng với các danh thần nhà Nguyễn
khác.
Ngôi chùa xây dựng xong, Tổng
Đốc Doãn Uẩn cho mời Hòa thượng Tiên Giác - Hải Tịnh thuộc đời thứ 37, Lâm tế
chánh tông chi phái Thiên khai. Hòa thượng Tiên Giác-Hải Tịnh từng được triệu
về làm Tăng cang chùa Thiên Mụ (Huế) được thưởng kim tiền được lễ bộ cấp giới
đao độ điệp (Ý nghĩa cho phép thu nhận đệ tử). Mấy mươi năm học hỏi của các tự
viện chốn thần kinh, về quê năm 1841, đời Thiệu Trị là vị cao tăng đầu tiên tổ
chức an cư kiết hạ tại tổ đình Giác Lâm và nhiều khóa tại các chùa sắc tứ Từ
Ân, Hội Phước (Sa Đéc), Phước Hưng (Sa Đéc).
Ngài cũng là thiết lập được các giới đàn. Mỗi giới đàn thường có 3 đàn
truyền giới cho tăng, ni...Do đó ngài có rất nhiều đệ tử khắp các tỉnh Nam
kỳ. Việc hòa thượng Tiên Giác Hải Tịnh trụ trì dù chỉ trên danh nghĩa (vì lúc
này Hòa thượng đang trụ trì tổ đình Giác lâm) đã làm tăng thêm uy tín Tây An
tự.
Nhằm tưởng nhớ công lao của người sáng lập Tây An tự, Thượng tọa Thích
Thiện Thống trụ trì chùa cho biết Tây An tự đang tiến hành thủ tục để xây nhà tưởng niệm
Tổng Đốc An Hà Doãn Uẩn, và đã liên hệ trao đổi với gia đình cháu trực hệ của
Tổng đốc thống nhất đưa một số di vật do gia đình còn lưu giữ về trưng bày ở nhà
tưởng niệm. Việc làm này tuy có hơi muộn song sẽ góp phần tôn giá trị lịch sử
văn hóa của ngôi chùa.
2. Lịch sử
Tây An tự còn gắn liền với hành trạng của Đức Phật Thầy Tây An người sáng lập đạo Bửu sơn kỳ
hương. Đức Phật Thầy tên thật
là Đoàn Văn Huyên, sinh năm Đinh Mão
(1807), tức năm Gia-Long thứ sáu. Ngài quê ở làng Tòng-Sơn, tổng
An-Thạnh Thượng, tỉnh Sa Đéc. Xung quanh
hành trạng của Đức Phật Thầy có nhiều huyền thoại như việc bỏ nhà ra đi từ lúc
tuổi còn nhỏ. Chuyện ông một mình kéo cây da bị trốc gốc che chắn lòng sông,
thì chặt sậy, làm cỏ, đêm đến lại quét lá da để nấu nước uống, hay chuyện
trừ bệnh dịch…
Thượng tọa Thích Thiện Thống giới thiệu ngôi mộ Phật Thầy |
Duyên nghiệp của Đức Phật thầy với Tây An tự,
theo Thượng tọa Thích Thiện Thống kể thì sau khi ông Đoàn Văn Huyên qui tập tín
đồ thành lập Bửu Sơn Kỳ hương tại cốc Ông Kiến ở Chợ Mới, chính quyền sở tại nghi
ngờ ông tập hợp lực lượng chống đối lại triều đình nên “mời ông về” giam ở Châu Đốc ba tháng, sau đó buộc ông “muốn tu thì đến chùa Tây An mà tu hành” . Chùa Tây An giai
đoạn này chùa Tây An do ngài Minh Khiêm Hoàng Ân (thế hệ 38 dòng Lâm tế Chánh tông) – đệ tử của
Hòa thượng Tiên Giác Hải Tịnh trụ trì). Song do mối quan hệ mang tính nguyên tắc,
ông Huyên chỉ đồng ý thỉnh Hòa thượng Tiên Giác đến chứng minh làm lễ xuất gia
và đặt pháp danh là Minh Huyên, pháp hiệu là Pháp Tạng. Do xuất gia bất đắc dĩ
nên dù ở chùa Tây An nhưng Đoàn Minh Huyên vẫn tìm cách trở về các trại ruộng,
tiếp tục tập hợp tín đồ xiển dương Bửu Sơn kỳ Hương. Thời gian này ông đã xây
các ngôi chùa Thới hưng, Thới Sơn…và mở mang thêm các trại ruộng cho tín đồ. Bảy
năm sau ngài qua đời, nhưng vì “lý do an ninh” chính quyền sở tại đã không cho các
đệ tử của ngài chôn cất ngài ở vùng trại ruộng mà buộc phải di về chùa Tây An
an táng. Hiện ngôi mộ của Đức phật thầy tọa lạc bên phải phía sau ngôi cổ tự
này, tín đồ Bửu Sơn Kỳ hương cũng đã xây dựng một long đình phía sau ngôi mộ để
tăng thêm vẻ tôn nghiêm.
Tây An tự là một ngôi chùa có lối kiến trúc khá độc đáo. Tọa lạc trên
nền cao, thoáng rộng, khuôn viên chùa có diện tích hơn 1,5 ha. Điểm nhấn ấn
tượng nhất của chùa là ba ngôi cổ lầu nóc tròn “củ hành” - một mô típ kiến trúc
có dáng vấp Ấn Độ lại có bố cục hài hòa với lối kiến trúc chữ tam theo mô típ
chùa Việt Nam bộ. Thượng tọa Thích Thiện Tống cho biết, khoảng năm 1861, chùa
Tây An được trùng tu lại chính điện và hậu tổ. Đây là lần trùng tu xưa nhất,
kiến trúc hiện còn lưu giữ. Về sau, người có công đại trùng tu Tây An cổ tự là Hòa
thượng Bửu Thọ, thế danh Nguyễn Thế Mật. Phong cách mang dáng vấp Ấn Độ có lẻ
là do ý tưởng của hòa thượng. Cuộc đại trùng tu nầy được thực hiện vào
năm 1958.
Ngọc Phan-Hoàng Phương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét