Thứ Ba, 31 tháng 12, 2013

Ngày đầu tiên trong năm, ta nghĩ gì?

Thay tờ lịch mới, ngày đầu tiên trong 365 ngày của năm mới hiện ra trước mắt. Tất cả lại bắt đầu.
Ngày đầu tiên trong năm, ta nghĩ gì?
Cầu cho năm mới mọi việc đều hanh thông hơn, thuận lợi hơn ư ?
Tất nhiên rồi ! Sau một năm lo toan vất vả bươn chải vì cơm áo gạo tiền, con cái học hành và những bức xúc với môi trường cuộc sống chưa giải toả, sao lại không mơ ước?
Đọc báo Tuổi Trẻ thấy loan tin, các cán bộ, giáo viên vùng sâu vùng xa của Gia Lai - Kon Tum chỉ nhận được “vài lít dầu ăn và nước mắm” cho đợt Tết năm nay. Nào đâu chỉ có giáo viên vùng ấy. Ở cơ quan của một huyện sắp lên thị xã như chỗ mình, Tết cũng chỉ có chừng đó. Năm nào sung túc hơn thì có thêm tờ lịch và nửa ký bột ngọt. Mấy năm trước, nhà nước còn hào phóng lương cho mượn lương tháng 2 (gọi là tháng 13), coi như phần quà thưởng Tết. Ăn xong qua tháng hai, ngồi ngóng…Hai năm nay kinh tế khó khăn, nhà nước không cho mượn nữa, đỡ lo. Cuộc sống mà cứ tạm ứng dài dài như vậy, mệt !
Gần Tết thì báo chí nêu nhiều nơi thưởng Tết khủng, nhất là ở khối doanh nghiệp nhà nước. Hình như đó không phải là chuyện mới. Mức độ bất bình đẳng về thu nhập từ lâu đã có rồi. Sự phân hóa giàu nghèo đã báo động từ mươi năm trước, có điều đã đỉnh điểm chưa thì không dám khẳng định. Nhưng xã hội đã xuất hiện nhiều hiện tượng phân hóa vì nghèo đói và vì đồng tiền làm mờ nhân cách, băng hoại đạo đức: Nào  vụ cướp bia ở Đồng Nai, chuyện thẩm mỹ Cát Tường, chuyện bạo hành trẻ thơ. Và mới đây là chuyện nhân danh cái nghèo mà coi thường cộng đồng “ai kêu đeo hột xoàn, đi xe tay ga chi cho nó chém”. Một bộ phận dân nghèo bị lưu manh hóa ư ?. Đâu rồi cái đạo lý “nghèo cho sạch rách cho thơm”, hay là bệnh vô cảm đang chiếm số đông.
Có lẽ những người quản lý hay làm chính sách xã hội nên di hành về những vùng quê nghèo xem bà con ăn Tết (chỉ còn đúng 1 tháng nữa) mà để ý quan tâm.
Thôi thì đó là chuyện của…người lớn. Thảo dân thấp cổ bé miệng, than thở cũng chẳng ai nghe.
Ngày cuối cùng của năm, đón nhận tin vui: tàu ngầm HQ182 Hà Nội lớp Kilo của Việt Nam đã về đến quân cảng Cam Ranh.

Cầu mong cho thế giới hòa bình và cũng cầu mong cho mình được khỏe khoắn mà “cày” cho 365 ngày tới.

Thứ Ba, 26 tháng 11, 2013

"Dĩ bất biến ứng vạn biến"

Có đứa em đang học lớp đại học văn hóa tại chức, thầy bà từ Hà Nội bay vô dạy. Dùng hai chữ thầy bà có vẻ như xúc phạm chứ thật ra là vậy. Em kể, mỗi lần thầy đi máy bay vô phải coi ngày, chỗ thầy tạm nghỉ cũng phải có cái bàn thờ khói hương nghi ngút. Thầy dạy thì ít mà đòi đi chùa, đi miếu thì nhiều. Bài nào thầy cũng nói đến yếu tố tâm linh và phong thủy. Mới đây, thầy ôn thi cho  học viên 72 đề bài để nghiên cứu trước. Câu nào câu nấy đọc lên tá hỏa. Báo hại học viên phải hùn tiền phong bao cho thầy để thầy chốt lại gọn một chút.
Nghe than phiền bèn an ủi đương sự một câu thầy ấy chỉ là đối tượng hành sự ở tầm “vi mô” thôi. Còn vĩ mô thì em thấy đó…tràn lan.
Hàng năm, tới mùa lễ hội, nhiều đoàn người tấp nập đi lễ Đền Trần, Bà Chúa Kho, Bà Chúa Xứ… khấn vái để xin thăng quan tiến chức, tiền tài danh vọng. Mới đây người ta phát hiện nhiều nhà ngoại cảm dỏm giả đủ kiểu, gạt người tìm mộ liệt sĩ lấy tiền.
Lại có nhiều người thuộc một câu kinh câu kệ vẫn rước Phật to đùng về đặt giữa nhà đốt nhang cúng vái hàng ngày để cầu mua may bán đắt, cầu đừng bị bể hụi giựt nợ và cầu cả việc không bị phát hiện những cách làm ăn gian dối, phi pháp…
Nè em. Đời sống tâm linh lành mạnh sẽ hướng con người tới điều Thiện. Nhưng hiện nay, trong nhận thức tâm linh của một bộ phận người trong xã hội đang có điều bất ổn mà hầu hết là lợi dụng để che giấu tính tham lam, ích kỷ, tức cái Ác.

Thói thường gần mực thì đen, khuyên em cần có bản lĩnh không thôi sẽ nhiễm thói hư tật xấu ở đời. “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, trước mắt ráng mà cúng vái không thôi sẽ thi rớt đấy!

Thứ Hai, 25 tháng 11, 2013

Chết mày rồi !

Mới sáng thằng nhỏ bảo ký tên dùm vào bảng kiểm điểm của chính hắn. Hỏi tại sao mày làm kiểm điểm. Đương sự bảo, hôm 20-11, không đến dự lễ ở trường nên bị cô giáo bắt làm kiểm điểm
Bèn ký tên thừa nhận hành vi vô kỷ luật của hắn, rồi lên lớp: Chết mày rồi, hồi xưa tới ngày mồng ba Tết hay ngày Tết Đoan Ngọ (mồng 5 tháng 5)  học trò phải tới nhà thầy chúc Tết, có gà đem gà, có gạo đem gạo. Bây giờ mày đi học có ngày 20-11 hẳn hòi mà cũng hổng nhớ, để bị phạt. Đương sự bảo, trong lớp có 25 bạn,  (nghĩa là hơn 2/3 lớp) phải làm kiểm điểm chứ đâu phải….
Con số hắn đưa ra bất chợt giật mình. 
Ờ há ! Hồi xưa việc học hành đâu cho chuyện dạy thêm thu phí, bán điểm buôn bằng, mở sổ vàng quyên góp… thậm chí còn gài nhậu gạ tình. Trên không ngay thì dưới ắt loạn. Hai phần ba lớp của đương sự chỉ bị tội vô kỷ luật (nếu có thông báo bắt buộc) chứ không thể gán vào tội phi đạo đức được.
Ký tên xong mở mạng xem lại không khí ngày Hiến chương nhà giáo các nơi thế nào thì thấy báo đăng vụ sách giáo khoa ra đề toán rùng mình “Em có 5 ngón tay. Em chặt bớt 2 ngón. Hỏi còn mấy ngón?”.
Đây không phải là rùng mình là mà rùng rợn. Mà thôi, chuyện sách giáo khoa viết bá láp cũng không phải sự gì mới mẻ. Xin mạn phép dẫn lời của một ông anh về cái giáo dục 5 chữ R “Có lẽ trên khắp thế giới không có nước nào có ngành giáo dục kỳ quái như Việt Nam hiện nay, một ngành giáo dục liên tiếp xảy ra các vụ cải cách mà càng cải cách thì chất lượng càng rớt, thầy cô càng rối, học sinh càng rên, phụ huynh càng run, xã hội càng rầu.

Chết mày rồi ! mày (và các bạn của mày) sinh ra không gặp thời, con ạ !

Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2013

Nghĩ về phận người trong chiến cuộc

Trong bài Vì sao Phạm Xuân Ẩn không bị lộ ? Nhà văn Nguyên Ngọc kể “Tôi có một người bạn từng là bí thư tỉnh ủy một tỉnh nổi tiếng ác liệt trong chiến tranh. Sau 1975 có hôm anh băn khoăn bảo tôi: Chúng ta tôn vinh các bà mẹ Việt Nam anh hùng từng có nhiều con hy sinh trong chiến tranh, là đúng thôi. Nhưng có lẽ cũng đừng làm quá. Còn có hàng triệu bà mẹ khác, có con đi lính cho chính quyền miền Nam và đã ngã xuống. Mình làm quá, các bà mẹ ấy sẽ tủi thân. Mà cũng là những bà mẹ Việt Nam, các mẹ cũng đau khổ, theo cách nào đó thậm chí con đau khổ hơn. Mà các mẹ có tội tình gì đâu ...”http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/150348/vi-sao-pham-xuan-an-khong-bi-lo.html),
Năm ngoái làm quyển sử cho xã Phú An/Cai Lậy nghe một cán bộ binh vận kể câu chuyện như sau: Năm 1970, giặc đóng đồn Phú Hiệp, án ngữ ba xã Phú An, Cẩm Sơn, Hiệp Đức. Ta đánh hoài nhưng không bứng nổi đồn. Binh vận xã Phú An bèn tổ chức đưa một nữ cán bộ vô bót tìm cách tiếp cận, móc nối với đồn trưởng, nhưng bọn lính đồn đã biết chị là Việt cộng nên đã bắt giữ chị, nhốt lại bót qua đêm thay nhau hãm hiếp. Lãnh đạo huyện nghi ngờ khí tiết của chị, sợ lộ đường dây tổ chức, nên chỉ đạo thủ tiêu chị để bịt đầu mối. May thay, người lãnh nhiệm vụ thi hành bản án đã “nhân từ mở ải thả oan gia”, tìm gặp chị, khuyên chị bỏ trốn, tìm nơi khác làm ăn. Sau ngày nước nhà hoà bình thống nhất, chị ấy trở về quê sinh sống trong sự cô đơn và nghèo túng.
Người phụ trách công tác binh vận năm xưa kể lại với một thái độ dè chừng, giấu luôn tên tuổi chị, sợ khơi gợi lại nổi đau của chị hay đụng chạm vấn đề gì khác ?.
Ký ức thời chiến tranh có những chuyện tưởng chừng như giai thoại. Xin mạn phép dẫn lại lời của nhà văn Nguyên Ngọc “Chiến tranh, muốn nói gì thì nói, vẫn là thứ tàn bạo nhất, dã thú nhất, mà cho đến ngày nay loài người, đáng buồn thay, vẫn chưa thoát ra được để hoàn toàn là người”


Và những câu chuyện lịch sử ấy “là để giúp cho con người người hơn, nhân văn hơn, khoan dung, bình tĩnh hơn, minh triết hơn, qua những bài học hay ho hay đắng cay của số phận làm người”.

Thứ Ba, 19 tháng 11, 2013

TẢN MẠN TÌNH THẦY- TRÒ

Ngày 20-11, định dành một chỗ trang trọng nhất vinh danh các thầy cô giáo mà sao vẫn thấy băn khoăn.
Mấy hôm nay, báo mạng lên tiếng nhiều về vụ bảo mẫu đạp chết bé mới 18 tháng tuổi. Rồi chuyện Công an tỉnh Sóc Trăng ra lệnh tạm giam Hoàng Thị Lệ Hằng về hành vi chứa mại dâm. Bị can 41 tuổi này là giáo viên tiểu học ở TP Sóc Trăng (Ngày 8/11)
Nhớ cách đây 3 năm có vụ học sinh ghi âm lời cô giáo chửi mắng và nhiều người tham gia diễn đàn bình luận phê phán trái chiều, bên này đổ thừa bên kia...
Xem chừng những chuyện tiêu cực liên quan đến thầy cô giáo còn dài dài…Nghe mà nhức đầu.
+
Nhứt quỉ nhì ma thứ ba học trò.
Hồi xưa tụi này vẫn thế. Nhớ hôm họp mặt bạn bè của những 30 trước, có đứa cũng ôn lại những kỉ niệm quỉ quái thuở học trò. Hồi đó ở trường trung học tỉnh hạt Bình Phú có thầy Hồng dạy toán, luôn sử dụng điệp từ “dứt khoát và quan niệm”, và nó cũng là đề tài để lũ học trò nghịch ngợm chế giễu, tất nhiên không dám nói trước mặt thầy. Còn thầy cứ vô tư mà bày tỏ “quan niệm” của mình một cách “dứt khoát”.
Bấy giờ đời sống khó khăn, những lo toan thường ngày cũng len vào tận lớp học. Những câu chuyện của thầy trước khi vào bài học là những chuyện đại loại như mua nhằm xà bông dỏm, định mức cho giáo viên vài thước vải mùng không biết để may quần hay may mùng...thầy không hút thuốc người ta vẫn phân phối cho mấy gói “Hoa mai, Đà lạt”- loại thuốc lá thịnh hành lúc bấy giờ. Có khi thầy khoe vừa mới may cho bà xã được cái áo vải “Tân gia ba” – hàng lậu...Cả lớp nghe, đôi lúc rộ cười vì cách nói của thầy.
Nhớ năm thầy cưới vợ, trong nhóm có thằng “rắn mắt” nói nhỏ “ Á ngộ rồi già mà có vợ”. Thầy nghe được và “quan niệm”: Có sao đâu em, chồng già vợ trẻ là tiên mà ! Tất nhiên cũng không trách phạt đứa học trò câu nào. Vui nhất là lúc cả trường đi lao động: Đào kinh, đắp đập. Nghe thì nặng nhọc nhưng học trò vừa làm vừa chơi, chất lượng chẳng ra sao, nhưng đó là khoảng thời gian thầy trò gắn bó như ruột thịt, lo cho nhau từng ngụm nước.
Bây giờ thiên hạ đổ lỗi cho những tiêu cực xảy ra trong ngành giáo dục là “ Đồng lương không đủ cho giáo viên sống và học tập trau dồi nghề nghiệp, thì họ sẽ phải làm những chuyện mà lương tâm giáo chức không cho phép. Đây cũng là lý do khiến cái “chợ chữ” ở Việt Nam nhiều năm qua xem ra ngày càng bát nháo, bệ rạc và nhiều người bán cũng trở nên thực dụng, tồi tệ một cách đáng thương”.
Tại sao hồi bao cấp đời sống thầy cô giáo (và cả học trò) khó khăn hơn bây giờ nhiều mà quan hệ thầy trò vẫn đẹp ? Có lẻ cần thêm những câu trả lời khác, ngoài việc ra sức Nói Không Với... rất nhiều cái.
Dẫu sao ngày 20-11 vẫn là ngày đẹp, một ngày cần phải vinh danh để nhớ ơn các thầy cô giáo.
Phải không mọi người ?


Thứ Hai, 18 tháng 11, 2013

Buồn vui... chuyện viết lách

Đã viết, gởi xong 3 bài báo Xuân cho Tết Giáp Ngọ. Tất nhiên có được đăng hay không là quyền ở Tòa soạn, chỉ biết gần Tết mà không viết báo Xuân thì hơn buồn. Vả lại có vài bài báo dịp Tết sẽ có thêm vài hộp bia cho thịnh soạn, còn không thì nhấm rượu đế cũng qua Xuân.
Năm ngoái, viết cho AB 2 bài theo đơn đặt hàng. Nghe nói cả 2 bài đều đã lên khuôn nhưng đến giờ chót tay Phó tổng gỡ xuống với lý do có viết bài cho báo TN. Nghe thấy cũng hơi lạ, nhưng nghĩ lại có lẻ hắn nhỏ nhen với ai đó của tờ báo kia; nên thôi không thèm nhắc, cũng chẳng thèm buồn. Năm nay vẫn cứ gởi, không phải vì tay Phó tổng kia đã điều chuyển sang ngành khác mà vì “nghĩa vụ tình” không viết bài báo cho tỉnh nhà cảm thấy ái náy. Thế thôi !
Lại cũng chuyện viết lách. Có một tay Tiến sĩ quê ở Nhị Qui xưa làm cùng cơ quan có chút tình thân gợi ý giúp cho xã quyển lịch sử. Bèn bảo, Nhị Quí là quê nội của mình, rất sẳn sàng. Thế là đương sự tổ chức buổi gặp mặt giới thiệu với các vị lãnh đạo xã. Đem hết tâm huyết và tư liệu có sẳn ra làm đề cương dài hơn 30 trang gởi xuống theo lời hứa hẹn. Nay gần 3 tháng chẳng nghe phản hồi gì về công trình, cũng có hơn buồn. Nghe đâu còn phải đợi xin ý kiến của ai đó. Nghe xong cười ruồi.
Ghé M.Chung hỏi thăm về vụ tuyển dụng giáo viên. Hắn chơi một hơi mấy câu thơ dạng vỉa hè rồi thổ lộ, có vị lãnh đạo bảo mầy viết nhanh quá. Quyển sách dày mấy trăm trang viết có 6 tháng, nên ngại không dám duyệt cho mày viết tiếp. Lại cười ruồi, nghĩ thầm học trò phổ thông cũng biết giá trị quyển sách nằm ở chỗ hay hay dở, chứ đâu phải ở chỗ tác giả viết nhanh hay chậm. M. Chung biết ý bèn vĩ thanh, tao nói mầy tích cóp tư liệu mấy chục năm mà viết tới 6 tháng e còn hơi chậm.
Không biết có thật hay không nhưng trong lòng thầm cảm ơn rồi chào lui, nói thầm, chuyện viết lách thấy buồn nhiều hơn vui.
Ra khỏi công cơ quan vẫn còn buồn, thôi thì đi nhậu vậy, dẫu biết rằng rượu không có lợi cho sức khỏe!

Thứ Tư, 6 tháng 11, 2013

Nhớ Chị Năm...


Chị Năm con thứ tư của cô Năm. Cô Năm không có con trai thứ hai. Anh Ba là anh lớn nhất, rồi tới chị Tư tên Lùn (trong giấy tờ ghi là Loan), còn chị Năm có tên cúng cơm là Còng, tên giấy là Phan thị Kim Thu. Chị không đẹp nhưng rất có duyên, cái duyên của người con gái vào thời chín mùi của tuổi dậy thì. Chị hay cười nhưng đôi mắt lúc nào cũng phảng phất nét buồn buồn, chứa đụng một tiền định không hay: má hồng bạc phận. Ai cũng bảo con nhỏ này mai mốt lấy chồng sẽ khổ. Thương chị, có lần tôi bảo mai mốt chị đừng lấy chồng.
Giải phóng được 2 năm, tháng 7 năm 1977, chị mất. 


Nhà của cô Năm bấy giờ làm ở triền viên, cách lộ bốn chừng 2 cây số, có bót 28 do nghĩa quân đóng. Bộ đội và du kích thường ra đó đánh bót hoặc tổ chức phục kích đánh xe. Hướng Cai Lậy, cách khu vườn của cô chừng một cây số có con lộ Chùa (chùa Âm Nhơn) xa hơn một chút có lộ Hòa thượng, vốn là hai con đường bộ đội thường xuyên qua lộ bốn. Mỗi lần qua lộ, họ thường trải ni lông để che dấu chân nên lính nguỵ Sài Gòn khó phát hiện.
Không rõ lúc nào bộ đội ra gài mìn chống tăng ở cánh đồng này. Có lẻ là hồi khoảng năm 1973, lúc hai bên giành dân cắm cờ, lấn đất.
Sau ngày 30-4-1975, mãi mê với chiến thắng, người ta quên mất những quả mìn sót lại.
Chị Năm đi nhổ cỏ mướn cùng em Thao, con bác Ba Sơ, vốn là suôi gia với cô tôi. Họ đạp phải nút khai hỏa nên quả mìn phát nổ. Tiếng nổ cách mấy cây số còn nghe. Dân trong xóm chạy ra, một cái hố bằng miệng đìa. Chị Năm tôi chỉ còn là đống thịt bầy nhầy. Một chân của chị văng xa mấy trăm thước. Cô tôi ôm cái phần đùi lẫn máu và bùn của chị rồi ngất xỉu. Còn em Thao chỉ có gương mặt nám đen vì khói đạn thi thể cũng khôn còn nguyên vẹn. Người ta xúm nhau lượm từng miếng thịt vương vãi trên ruộng lúa, nhưng không rõ của người nào, gom lại để tẩn liệm.
Chính quyền hay tin cử công an huyện xuống điều tra xem có phần tử phản động nào đã gài mìn hại dân. Nhưng người dân trong xóm biết là không phải mìn của kẻ xấu là là mìn chống tăng của bộ đội để sót, họ hè nhau chửi rủa... Hai anh công an sợ quá trốn về huyện.
Tội nghiệp chị tôi, mới hưởng được hai năm hòa bình, không phải đùm túm đi tản cư, chưa kịp có người yêu thì chị đã ra đi với thân thể nát vụn.
Mỗi lần xem TV thấy người ta nói đến việc rà phá bom mìn, tôi lại bùi ngùi nhớ chị.

Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2013

Cõi người...

Lâu rồi không đọc thơ, khuya nay vô trang mạng của nhà thơ Lê Minh Quốc thấy ông than thở “một khoảnh khắc trong ngày’ với sự than van bất lực “tìm một bàn tay vỗ về” mà “chỉ gặp bóng trăng khuya… trên vũng lầy đô thị”.
Cái vũng lầy dư dã sự ồn ào của nhân gian nhưng thiếu vắng hai chữ “tình người” , cho nên nhà thơ “chỉ gặp gương mặt đóng hộp/ manequin trên sàn diễn ngoại tình/ những hội nghị hội hè hội diễn thời trang…
Này ông nhà thơ ! Mấy hôm nay thiên hạ đang ồn ào chuyện bác sĩ giết người ném xác xuống sông. Ồn ào vì thi thể nạn nhân chưa tìm được. Nhưng người ta lại im lặng đến tàn nhẫn đối với 6 thi thể trôi sông vô tình gặp được trong lúc đi tìm xác nạn nhân kia.
Những thi thể ấy là người nhưng như đó không phải là…người.
Chia sẻ cùng ông “một kiếp người quạnh quẽ lặng lờ trôi” rồi buông một câu lạnh lùng phải sống cho trọn kiếp người:
“Vòng đời như một chiếc đồng hồ
phải lên giây để bắt đầu sự sống”.
Có lẻ thế gian này có nhiều người phải sống như thế. Cái sự sống mỏi mòn như phận bèo dạt mây trôi tựa như hai câu thơ (không rõ của Phùng Cung hay Phùng Quán):
Lênh đênh muôn dặm nước non
Dạt vào ao cạn vẫn còn lênh đênh. 

Thứ Năm, 24 tháng 10, 2013

Vô đề

Gần đây thấy chùa Vĩnh Tràng có nhiều chuyện: Phật thì cao to lấn át chùa, đứng ngồi phơi nắng ngoài sân, cây cối trong khuôn viên thì dọn dẹp khoáng đãng không còn vẻ u nhàn của chốn thiền môn. Chưa hết chốn thiền môn lại có người mặc sắc phục, cầm dui cui gác cổng...Thấy lạ bèn cùng 1 người bạn viết một bài đăng báo chơi, ai ngờ bị các sư mắng là thiếu hiểu biết, là không rành giáo lý.
Bức tượng này xưa làm bằng xi măng trắng theo kỹ thuật phương Tây
Giờ được mặc áo mũ đỏ, thêm một chút tóc cho ...sinh động ư ?


Thưa các sư !
Tại hạ vốn không phải là tín đồ Phật giáo, chuyện không rành giáo lý là lẻ đương nhiên, nhưng theo tại hạ biết thì kinh sách nhà Phật không cấm chúng sinh “góp ý cho việc hoằng dương Phật pháp”, nên  tại hạ có đôi lời như sau:
- Chuyện di dời hai pho tượng của hòa thượng Minh Đàn và Trà Chánh Hậu trước đây đã xảy ra. Bấy giờ hòa thượng Minh Đàn còn tại thế. Nhưng sau khi hòa thượng viên tịch thì hai pho tượng được đặt chỗ cũ cho phù hợp với nội dung các câu đối và hoa văn “trần thế” được thiết kế hai bên cổng. Sau này các vị lại tiếp tục di dời rồi thay vào đó là tượng Phật Di đà với lý do “theo tinh thần nhà Phật từ bi bình đẳng, không để người khác đi lòn dưới chân mình, trong đó có việc vận chuyển kinh sách của Phật”. Ô hay ! mấy chục năm người ta vẫn đi về thăm viếng chốn thiền môn qua lối ấy, có ai thắc mắc gì đâu ? Hơn nữa, ngày trước chùa Vĩnh Tràng có cổng chính, việc vận chuyển kinh sách hay vào những ngày lễ lạt tín đồ và các sư sãi đều đi qua cổng này. Vì sao các sư lại bít lối cổng chính để cho chùa hiện nay chỉ còn hai cổng, giống như hai cổng Thiện nam, Tín nữ chấp hữu chấp vô, vốn không phải là của Phật giáo.
- Chuyện đốn bỏ 2 hay 3, 4 cây sao gì đó, tại hạ đâu có đếm mà các vị phân bua. Chỉ biết ngôi chùa xưa nhiều cây cối xanh tốt lắm, hổng tin các vị hỏi những người xung quanh chùa hay các vị trụ trì đời trước như hòa Thượng Thích Bửu Thông xem sao. Còn không, các vị có thể tham khảo những hình ảnh chụp ngôi chùa trước đây thì sẽ thấy. Phân bua làm gì số lượng cây đã hạ.
- Còn vụ tượng Phật Di đà phóng quang hay thủ ấn, do tại hạ không rành giáo lý thấy sách vỡ nói sao không đúng thực tế nên thắc mắc mà thôi. Giống như đứa trẻ không rành chuyện nên hỏi người lớn: Ủa sao những bức tượng giống nhau mà tượng này giơ tay phải tượng kia giơ tay trái. Vậy thôi !
- Phật dạy sửa chùa tô tượng là làm phước, song tô sửa như thế nào để còn dấu xưa cho con cháu và cũng để tỏ lòng kính trọng công lao của bậc tiền nhân chứ !
Cuối cùng, tại hạ cũng xin nói thêm việc tu hành, hoằng dương Phật pháp là chuyện của các vị, còn ngôi chùa này là tài sản văn hóa của quốc gia đấy !
------

Vĩ Thanh: Có một vị theo trường phái “đông không thầy, tây không chủ” nói rằng các vị xây dựng tượng Phật Di đà to lớn trước cổng là để “trấn áp quần hùng”. Không biết đúng hay sai nên không dám lạm bàn.

Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2013

VÒNG KIM CÔ VÀ... "TỰ SƯỚNG"



Hôm qua, chi hội Văn khai mạc trại sáng tác bút ký, một dạng “trại viết bỏ túi” chỉ trong dòng 2 tuần lễ. Nhưng để cho hoành tráng, BTC đã sắp xếp 3-4 bài tham luận về kinh nghiệm viết Ký. Kinh nghiệm đâu chẳng thấy, chỉ thấy các bài tham luận ngoài chuyện “ tự sướng” với cái tôi của mình, còn lại là những lý luận theo kiểu Ký là gì, ký văn học đặc trưng như thế nào, bố cục, chữ nghĩa ra sao…Nghe mà nhức đầu. Chẳng biết hồi xưa ông Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân hay Hoàng Phủ Ngọc Tường có quan tâm chuyện đó hay không khi đặt bút viết những bài ký sự sống mãi với thời gian. Hay xa hơn, ông Nguyễn Liên Phong ghi chép Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca (XB 1909) bằng thể văn vần có được xếp vào thể…Ký.
Biểu mình phát biểu kinh nghiệm, chẳng có kinh nghiệm gì cả. Tự dưng tròng cho mình một cái vòng kim cô với những nguyên tắc theo kiểu của các nhà lý luận thì không chơi, chỉ biết chọn đề tài, tiếp cận và viết…Thế thôi. Có điều những bài viết có liên quan đến những vấn đề liên quan lịch sử thì nên thận trọng, nguyên tắc là không ném những kiến thức sai trái vào trang viết, như tình trạng phổ biến hiện nay.
Còn xã hội hiện tại có nhiều vấn đề hết sức trăn trở, bức xúc, nhưng viết rất khó, không phải khó cho người viết mà khó cho BBT. (cân nhắc đăng hay không dám đăng)
Hiện thực đang phơi bày với nhiều vấn đề gay góc. Xã hội thì “ra ngỏ gặp du côn” (trộm cướp, giật dọc, đâm chém). Nông thôn thì nông dân làm ra lúa nhưng vẫn nghèo. Trồng cây ăn trái thì như đánh bạc, nay trồng mai đốn. Tình trạng bỏ quê lên Sài Gòn, làm thuê kiếm ăn ở các xí nghiệp thật tàn nhẫn; có xã không còn thanh niên, đám cưới kiếm vài chục thanh niên bưng mâm quả không có.... Đời sống văn hóa xuống cấp, không có chuẩn mực, mất phương hướng. Các giá trị truyền thống thì bị phá vỡ từng mảng. Đang hình thành  một lớp thanh niên chỉ biết kiếm tiền và hối hả hưởng thụ những gì có được, thậm chí hưởng thụ theo kiểu “trả góp”.
Rồi môi trường bị huỷ hoại. Nông thôn bây giờ tìm đâu ra nhưng dòng sông con rạch để chiều chiều nhảy xuống tắm, nô giỡn...Hồi xưa vào mùa nước nổi thì bơi xuồng giăng lưới, giăng câu, bắt ốc. Còn giờ thì cua ốc bán ngoài chợ cũng toàn đồ nuôi. Đi đâu cũng gặp rác. Cái kỷ nguyên đồ nhựa này xem ra sẽ còn trả giá sau nhiều thế hệ nữa.
Còn nhiều chuyện để nói, để viết. Song muốn phơi bày hết những bức tranh xám xịt đó cần phải có bản lĩnh. Bản lĩnh từ cách thức tiếp cận vấn đề đến việc bộc bạch tâm tư - điều này thể Ký cho phép. Còn bài viết có đăng được hay không thì…để đó. Không khi này thì khi khác vậy. Chứ đừng viết chung chung, nhàn nhạt, hay lộng giả thành chơn rồi tự sướng.


Thứ Tư, 9 tháng 10, 2013

Loạn rồi !

Báo vietnamnet.vn đưa tin ‘Đưa Bà Tưng, Ngọc Trinh vào đề thi học sinh giỏi’ (http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/143959/dua-ba-tung-ngoc-trinh-vao-de-thi-hoc-sinh-gioi.html)  có kèm theo ảnh chụp và trích bình luận của những nickname trên mạng xã hội. Theo đó,  đề thi chọn học sinh giỏi môn Ngữ Văn TP. Hải Phòng do Sở GD-ĐT Hải Phòng ra đề. Đề thi với thời gian 180 phút có một câu hỏi nghị luận với nội dung:
"Người mẫu Ngọc Trinh từng trả lời phỏng vấn rằng : "Yêu không có tiền thì cạp đất mà ăn à?" Mới đây cô gái trẻ Lê Thị Huyền Anh (biệt danh "Bà Tưng") khi trả lời một trang mạng xã hội, cũng thẳng thắn : "Tôi mơ ước có nhiều đại gia, nhiều người giàu quan tâm đến mình, cho tôi thật nhiều tiền:
Từ những hiện tượng trên, anh/chị hãy viết một bài văn (tối đa 800 từ) về chủ đề: "Tiến bộ xã hội và ước mơ đại gia của cô gái trẻ."

Báo viết thêm “Đề thi lạ và “hot” này khiến cư dân mạng xôn xao và nhận được nhiều ý kiến trái chiều. Phần đông cho rằng đề thi hay, bám sát thực tế cuộc sống, mở và thoáng.  
Không bình luận về việc ủng hộ (thậm chí chí ca ngợi) hay không  của các nickname trên mạng, chỉ muốn nói nhấn mạnh 1 điểm là thành viên trong ban ra đề thi chọn học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 12 của thành phố Hải Phòng xác nhận thông tin về câu nghị luận xã hội nói trên đưa vào đề thi năm nay. Và ý kiến của Phó GĐ Sở GD-ĐT Hải Phòng Nguyễn Xuân Trường: Việc ra đề mở cho học sinh làm bài là chỉ đạo từ Bộ GD-ĐT, không phải việc sở tự nghĩa ra. Để hiểu cho thấu đáo phải cắt nghĩa câu hỏi, tình tiết và mục tiêu đề bài. Hình như để phòng hờ ông Trường còn thả câu thòng “Đây là cuộc thi mà đề bài giới hạn cho nhóm học sinh giỏi, không phải đại trà nên phải cân nhắc mức độ khó dễ”. (Theo Vietnamnet)

Xã hội đang đầy rẫy những chuyện “Đòi chồng trả tiền “hao mòn thân thể”. Con trai kiện đòi tiền phụng dưỡng mẹ. Con kiện cha, đòi bồi thường 18 quả trứng gà. Con kiện mẹ 90 tuổi đòi bộ ghế salon...chưa đủ hay sao cái thảm cảnh tình – tiền – tù – tội mà phải tiếp tục gợi ý, đầu độc thêm cho thế hệ trẻ được mệnh danh là “tiến bộ xã hội”.

Loạn rồi !

Thứ Hai, 30 tháng 9, 2013

Tản mạn bên bờ Cái Lá

Ký 

Anh Ba Thâu nói sông rạch ở xã Phú An nhiều ông hơn bà: Ông Cối, ông Xây, ông Trung, rạch Ông Lẩm...nhưng chỉ có rạch Bà Phò, rạch Bà Bốn. Quả vậy, vốn là cuộc đất ven sông Tiền, Phú An có một mạng kinh rạch chằng chịt, ngoằn ngoèo, rạch Ông Xây là một điển hình - con rạch nhỏ, xoay vòng vòng nên gọi “ông” Xây/xoay, làm rối trí những người muốn đi tìm lai lịch những địa danh.

1. Con rạch lớn có nhiều chi lưu nhất là rạch Cái Bè nhánh phía Đông, hiện nay các văn bản ghi theo cách gọi dân gian là sông Phú An, còn thư tịch thì chép là Cái Lá, trùng tên với con rạch bên xã Hiệp Đức, nên địa danh lẫn lộn rồi mai một dần.
Chợ Cái Lá nằm trên bờ rạch qua cuộc bể dâu cũng không còn ai nhớ, mặc dù nền chợ vẫn còn đó với tên chợ Phú An với nhà lồng xây mới, thêm một lớp kiến trúc nhà lầu, nhà tường kiên cố chồng lên dấu vết xưa với dăm miếng đá ong vương vãi, khuất lấp trong những góc nhà. Dấu vết thực địa lưu lại hai bên bờ rạch Cái Lá là những hàng dừa nước, nhiều bụi chơ vơ mấy cọng lá, đưa bắp tay chống chọi với sự tàn phá không thương tiếc của con người. Vào sâu trong các chi lưu Ông Cối, Ông Xây, Bà Phò dừa nước mọc dày, dường như được người dân trong xóm bảo vệ kỹ hơn, để chống lở đất. Liên tưởng đến chuyện rừng lá ở Gò Công, nơi anh hùng Trương Định làm căn cứ chống Tây chỉ còn tồn tại với cái tên “đám lá tối trời” mà xót xa cho những chuyện huỷ hoại môi trường song hành với  sự tàn phá di tích.
Đầu thế kỷ 20, làng xã ở Nam kỳ bị người Pháp xáo trộn khá nhiều. Phú An cũng nằm chung số phận khi làng Phú Sơn bị tách khỏi hệ thống ngũ nhạc gồm: Hội Sơn, Xuân Sơn, Cẩm Sơn, Hòa Sơn, Phú Sơn để nhập vào làng An Mỹ. Rồi chiến tranh kéo dài, địa giới hành chánh tiếp tục thay đổi để phục vụ cho nhu cầu chiến đấu, cho nên xã Phú An sau ngày độc lập có đến ba ngôi đình: An Mỹ, Phú Sơn và đình An Thành vốn dĩ của xã Mỹ Thành, tức thôn Lợi An xưa thuộc xứ Lợi Tồn hay xóm Bà Tồn, đã ghi trong Địa bạ Minh Mạng. Làng mất đình còn, từ sau năm 1975, người dân Mỹ Thành Nam phía bên kia quốc lộ 1 vẫn nhớ ngày Kỳ yên kéo sang cúng bái. Một cách để nhớ về truyền thống cũ, không khác mấy trăm năm trước tổ tiên cư dân các làng ngũ nhạc hoài niệm quê nhà ở vùng đồi núi xứ Quảng nên dùng chữ “sơn” đặt tên làng làm kỷ niệm.
Nói chuyện ba làng, chợt nhớ đến bưng Cây Gáo Ba làng ở xóm giáp ranh thôn An Mỹ, hiện còn dăm thửa ruộng biền trủng. Gọi “Cây Gáo ba làng” vì cây gáo nằm giáp ranh các làng Cẩm Sơn, Bình Phú và An Mỹ từng được vài tài liệu thư tịch nhắc đến.
Ngày xưa bưng Cây Gáo Ba làng có diện tích khoảng hơn 10 mẫu tây, sen mọc đầy, nhiều loại chim chóc đến trú ngụ. Cách nay hơn 100 năm, khu vực này còn rất hoang vu. Vào những năm cuối thế kỷ XIX, heo rừng còn xuất hiện. Theo Đối cổ kỳ quan của ông Đặng Lễ Nghi thì lúc Trần Bá Lộc làm Đốc phủ ở quận Cái Bè, khoảng năm 1872, ở Cây gáo Ba làng xuất hiện một con heo rừng rất to, dân làng gọi là ông Chảng. Tác giả mô tả, ông Chảng không biết từ đâu đến cư ngụ vùng nầy, phá vườn, phá rẩy, uy hiếp dân lành. Dân trong xóm sợ quá khấn vái mãi mà ông chẳng buông tha. Sự việc đến tai đốc Phủ Lộc. Ông cho dời phường săn đến lo việc trừ khử con heo rừng nầy. Hai chục thợ săn được mời đến, trong đó có một người tên là Quản Năng rất giỏi võ nghệ. Họ trang bị giáo mác gậy gộc và đem theo 15 chó săn thiện nghệ đến bao vây khu vườn. Chó săn lùng sùng đánh nhau tơi bời với ông Chảng. Nhắm đương cự không nổi, ông Chảng lẻn khỏi vòng vây chạy thục mạng tới nhà chị Hai Trong. Bấy giờ có hai thanh niên tên là Đinh và Vàng vốn là hai anh em ruột. Họ bàn, heo rừng đã bị săn đuổi mệt, vậy anh em mình đâm chết nó rồi giấu đi để được ăn trọn phần.Vàng cầm cây, Đinh xách giáo tre nhảy vô đánh. Trong nháy mắt, Đinh bị ông Chảng tát văng giáo tre rồi dùng răng nanh xé xác.Vàng thấy anh mình bị ông Chảng cắn chết, bèn quăng vũ khí vừa chạy, vừa la làng kêu cứu. Anh ta trèo lên cây, con heo rừng vẫn ngoan cố đứng canh chừng dưới gốc. Một lúc sau, Quản Năng tới. Ông cầm giáo đánh vùi với ông Chảng nửa canh giờ mới giết được. Con heo rừng nặng đến tám người khiêng mới nổi.”. Người chép chuyện không bình luận nhưng đã gởi thông điệp rõ ràng, hoàn cảnh nào cũng vậy “tham thì thâm”.
Tản mạn chuyện xưa nhờ câu nói của một người bạn “khi hiện tại im lặng thì quá khứ ồn ào”. Khuấy động vào dĩ vãng đôi khi tìm thấy sự gợi mở thú vị cho hiện tại.
Đất Phú An trong lịch sử hành chánh thuộc về quận Cái Bè lâu hơn là Cai Lậy. Thời thực dân đô hộ, dân gian có câu:
Cái Bè có bốn anh hào
Thục ngang, Cang đởm, Sang giàu, Tú khôn.
Trong bốn “anh hào” ấy ở Phú An có hai vị: Lê Ngọc Thục và Hương quản Tú. Họ Lê nổi tiếng ngày trước hiện vẫn còn truyền tử lưu tôn. Hồi đầu thế kỷ 20, ông Lê Ngọc Thục bất chấp qui định của nhà cầm quyền thực dân, khai ruộng, tậu điền mở thêm một ấp, lấy tên là Phú Hiệp thuộc thôn Phú Sơn ở tận ngọn rạch Bà Hợp, thuộc làng Hòa Khánh. Danh nghĩa là một ấp của làng Phú Sơn, tá điền làm ruộng ở đây phải đóng thuế cho làng Phú Sơn, không đóng cho tổng Phong Hòa, còn bảo tổng nghèo hơn thôn. Vì vậy, mà nhà chức trách liệt ông vào hàng ngang ngược số một.
Hương quản Tú lập bến đò ở cuối giồng Cây Vông mà thư tịch cũ ghi là Dong Mục Cương, ở đây là đoạn cuối đường Thiên Lý trên đất Mỹ Tho, qua đò mới sang bên Thủ Triệu làng Hội Cư. Chưa rõ thời điểm ông lập, nhưng nghe nói nhờ huê lợi từ cái bến đò này mà ông trở nên giàu có. Không biết giàu cỡ nào nhưng cái sự khôn của ông đã để lại địa danh bến đò Quản Tú, lưu truyền đến nay.
Đừng tưởng câu ca dao hay phương ngữ và giai thoại không chứa đựng giá trị thực lục.
2. Anh Ba Thâu là người địa phương, làm bí thư xã Phú An có hơn 10 năm, bây giờ đã hưu trí nên có nhiều thời gian rảnh, cất công đi tìm chứng tích tư liệu, phục vụ cho việc biên soạn lịch sử địa phương. Những địa danh xóm Đất Làng trong Nam kỳ khởi nghĩa, Gò Da, Thủ Ngữ, Đìa Dứa, Cầu Kinh...trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là những nơi từng ghi dấu những chiến công oanh liệt của quân và dân xã Phú An trong suốt gần nửa thế kỷ đấu tranh giành độc lập. Anh xác quyết, nhiều trận đánh diễn ra ở xóm Gò Da xứng đáng để lập hồ sơ xin công nhận di tích lịch sử, tiến tới việc dựng bia kỷ niệm, bia chiến thắng...
Nghe anh liệt kê những chiến công, tôi chợt nhớ đến chị Hai Biếc ở xóm rạch Ông Cối. Một người phụ nữ nay sắp sửa bước vào tuổi cổ lai hy, đáng lý ra phải sống trong sự đuề huề chăm sóc của con cháu, lại thui thủi một mình trong căn nhà mà bằng, giấy khen và những kỷ vật thời chiến tranh nhiều hơn gạo thóc. Gia đình chị có bốn thế hệ làm cách mạng, chị thuộc thế hệ thứ ba. Ông nội là vị bí thư đầu tiên của chi bộ xã Phú An hồi năm 1930, đến Nam kỳ khởi nghĩa 1940, ông bị quận Tâm bắt, đánh chết rồi quăng xuống sông mất xác. Ba chị rồi người chú ruột tham gia kháng chiến chống Pháp, hy sinh. Bà nội nén nổi đau mất chồng, mất con, thời kỳ “tố cộng” đen tối nhất, vẫn đùm bọc nuôi giấu cán bộ Huyện uỷ trong nhà để chuẩn bị cho đồng khởi. Hai mươi năm sau kể từ ngày rời bỏ trần gian đi tìm chồng và các con, bà được nhà nước truy tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam Anh hùng.
Chỉ riêng gia đình chị Hai Biếc đã là một pho sử sống động, đủ sức để giáo dục lòng yêu nước.
 Nhưng Phú An nào đâu chỉ có gia đình chị Biếc. Có những chiến công thầm lặng mà cũng là nổi đau được giấu kín, nói theo cách nói đời thường là “sống để bụng chết mang theo”. Năm 1970, giặc đóng đồn Phú Hiệp, án ngữ ba xã Phú An, Cẩm Sơn, Hiệp Đức. Ta đánh hoài nhưng không bứng nổi đồn. Binh vận xã Phú An bèn tổ chức đưa một nữ cán bộ vô bót tìm cách tiếp cận, móc nối với đồn trưởng, nhưng bọn lính đồn nghi ngờ bắt giữ chị, nhốt lại bót qua đêm thay nhau hãm hiếp. Lãnh đạo huyện nghi ngờ khí tiết của chị, sợ lộ đường dây tổ chức, nên chỉ đạo thủ tiêu chị để bịt đầu mối. May thay, người lãnh nhiệm vụ thi hành bản án đã “nhân từ mở ải thả oan gia”, tìm gặp chị, khuyên chị bỏ trốn, tìm nơi khác làm ăn. Sau ngày độc lập, chị ấy trở về quê sinh sống trong sự nghèo túng, và càng cô độc hơn vì ai dám sẻ chia, đồng cảm...
Câu chuyện tôi được nghe người phụ trách công tác binh vận năm xưa kể lại với một thái độ dè chừng, giấu luôn tên tuổi chị, sợ khơi gợi lại nổi đau của chị hay đụng chạm vấn đề gì khác?
 Ký ức chiến tranh có những chuyện tưởng chừng như giai thoại.
3. Tổng kết của người xưa “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, làng quê Phú An xưa nay vẫn trung thành với nghề nông nhưng vẫn không khá lên được. Xưa ruộng ở đây đa phần là ruộng gò, canh tác theo kiểu ruộng lúa muộn, gieo mạ tháng 5, tháng 6, cấy tháng 7 tháng 8 đến tháng chạp, tháng giêng gặt. Ở những xóm đất giồng, gò thì trồng thêm các loại hoa màu như khoai, bắp, mía hoặc trồng dâu nuôi tằm...Do ở gần sông Tiền lại gần ngôi chợ đầu mối khá nổi tiếng: chợ Cái Bè, nên thương nghiệp ở vùng này phát triển khá sớm. Chợ Cái Lá có từ thế kỷ XIX, thuộc làng Phú Sơn tồn tại đến 1945, nay đổi thành chợ Phú An. Nơi đây xưa có nghề thủ công khá nổi tiếng là dệt vải với nguồn dâu tằm tại chỗ và nghề làm cau khô, trầu rang bán cho giới thương hồ đường dài. Song lợi thế ấy không còn giữ được khi mà giao thông đường bộ chiếm thế thượng phong so với đường thủy. Chợ Phú An không còn cảnh trên bến dưới thuyền thời phồn thịnh, đã biến thành ngôi chợ làng và thêm chiến tranh tàn phá đã không gượng dậy được.
Qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt, sau ngày thống nhất đất nước, xã Phú An vẫn là một địa phương nông nghiệp. Tuy nhiên tính chất thuần nông trong thời gian gần đây đã không còn, nhất là trong giai đoạn xã đang nổ lực chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hiện nay, diện tích trồng lúa đã giảm hơn phân nửa để nhường chỗ cho diện tích vườn cây ăn trái, nhưng lợi nhuận đem lại từ cây trái vùng này chưa bằng phân nửa so với đất vườn ở vùng Tam Bình, Ngũ Hiệp. Theo báo cáo của xã thì bình quân diện tích sản xuất chia cho đầu người chỉ nhỉnh hơn 700 m2 đất. Đây là nói việc chia bình quân, còn trên thực tế nhiều người không còn hoặc còn rất ít ruộng đất để canh tác. Không có cái tư liệu sản xuất cơ bản này thì toàn bộ kinh nghiệm sản xuất trên lĩnh vực nông nghiệp của cha ông họ truyền lại trở thành vô nghĩa. Buộc họ phải đổ về các đô thị lớn làm công nhân, hoặc các nghề khác có thể kiếm tiền hoặc tìm kiếm cơ hội làm giàu. Đây là vấn nạn ở Phú An trong những năm gần đây và chưa có dấu hiệu khả quan nào để nói rằng số người ấy đang không tiếp tục gia tăng. Và nó sẽ kéo theo hệ lụy về mặt văn hóa, có vẻ nghiêm trọng hơn trong tương lai, ly nông rồi ly hương, lớp trẻ xa rời truyền thống.
Mấy năm trở lại đây, xã Phú An đã hình thành những nhóm cư dân đa ngành nghề từ chăn nuôi, dịch vụ mua bán đến tiểu thủ công như sấy nhãn...và chú ý đến thương mại dịch vụ. Song nhiều năm qua vẫn loanh hoanh theo kiểu tự túc tự cấp, khó có thể bức phá với những khu chợ chồm hổm và dăm quán cóc ven đường. Việc khai thác các lợi thế địa dư hiện tại như dựa vào khu phố Bà Tồn, ngả tư Văn Cang...dường như chưa phải là thế mạnh bởi bản thân những nơi này không chứa đựng tiềm năng và yếu tố phát triển trong tương lai gần. Muốn phát triển lĩnh vực thương mại và dịch vụ không thể không tính đến việc nối dài sự phát triển của thị trấn Cái Bè. Điều này bản thân Phú An không thể đơn phương nỗ lực mà đòi hỏi sự hỗ trợ định hướng qui hoạch từ các nhà hoạch định chính sách cấp trên.
Một vài ý nghĩ tản mạn bên bờ Cái Lá, không dám lạm bàn đến chuyện đại sự quốc kế dân sinh, chỉ ghi chép những điều tai nghe mắt, mượn chuyện quá khứ để gợi mở những vấn đề hiện tại.

Tháng 9-2013

Thứ Ba, 24 tháng 9, 2013

Văn chương và Vé số

Truyện ngắn


1. Chiều cuối năm. Con đường nhỏ vòng quanh ngoại ô thị trấn trở nên nhộn nhịp. Từ ngày hình thành khu thương mại mới, có lẻ đây là một chiều cuối năm rộn rã nhất của một nơi nửa làng quê nửa phố chợ này. Những chiếc xe ba bánh đạp cũ kỹ chất đầy hoa cúc, hoa vạn thọ hối hả nối đuôi nhau về phía trung tâm chợ. Ở đây cách chợ hoa Tết không xa lắm, người ta nghe rất rõ tiếng những người phụ nữ đang kỳ kèo ngả giá.
Ngôi nhà gần cuối đường. Hình như nó được cất từ rất lâu, trước khi khu dân cư này nâng lên thành khu thương mại. Ngôi nhà trông có vẻ cũ kỹ, mái tôn đã gỉ sét, tọa lạc trên mảnh vườn ẩm thấp nhưng tuyệt nhiên không có một bụi cỏ hay một chiếc lá khô, chứng tỏ chủ nhân của nó bỏ nhiều thời gian chăm chút, nhưng có lẻ không đem lại huê lợi, vài cây bưởi, ít cây mận, loại giống cũ cho trái con nít không thèm ăn.
Trước sân nhà, dưới tàn cây mận đã già cỗi là một bộ ghế mây cũ mèm, vá víu nhiều chỗ, có chỗ bị ẩm thâm đen, kê xung quanh chiếc bàn gỗ hình bầu dục, có vẻ lạc lỏng không cân xứng. Người đàn ông tóc hoa râm, dài phủ ót hơi dợn trông có vẻ phong lưu tài tử. Cặp kính cận dày cộm khuất lấp những nếp nhăn trên đuôi mắt, nhưng không thể che giấu vết hằn bên  khoé miệng. Trông ông có vẻ già trước tuổi, phỏng đoán trạc ngoại ngũ tuần.
Ông ngồi bắt chân chữ ngũ, hướng mắt về phía bên kia đường. Trước mặt ông là một chai nhựa đựng thứ nước màu vàng sẩm, hình như là rượu thuốc, cạnh đó là một dĩa cóc ngâm muối, xắt từng miếng mỏng.
Chợt có chiếc xe gắn máy trờ tới phía bên kia đường, người lái xe dòm xung quanh rồi tắt máy, tập tểnh dẫn xe vào ngôi nhà đối diện.  
Một lúc sau, gã lái xe ấy cầm một túi nhựa nhỏ, đôi chân tập tểnh bước như phóng về phía sân nhà có bộ ghế mây và ông hàng xóm. Chủ nhà chìa bắt tay nhưng mắt lại nhìn hướng khác. Sau cái bắt tay có vẻ khách sáo và một chút tư cách bề trên, ông quày quả bước vào trong. Còn người khách thì xé cái bọc nhựa, bày lên bàn gỗ một mớ ốc luộc bốc khói nghi ngút và mấy cây tăm nhọn để lể ốc.
Độ vài phút sau, người ta thấy ông chủ nhà trở ra sân. Lần này có thêm một cái ly nhỏ và một quyển sổ bìa đen đã sờn gáy. Ông nhẹ nhàng đặt quyển sổ lên bàn, cạnh chai rượu. Họ ngồi đối diện nhau. Hình như không phải là một bữa thù tạc của đôi bạn tri âm tri kỷ mà giống một cuộc phỏng vấn.

2. Ông muốn hỏi về nghề nghiệp của tôi à ? Thật ra trước đây tôi cũng từng mơ mộng, đeo đuổi nghề văn chương như ông. Vào năm 1975  tôi rớt tú tài, chưa kịp bị động viên vào trường hạ sĩ quan thì giải phóng. Cách mạng đem lại cho tôi cái may mắn là không vào quân ngũ Sài Gòn làm bia đỡ đạn. Nhưng sau giải phóng tôi lại bị tai nạn khác, đó là lúc về quê dọn vườn, tôi chém phải trái M.97 còn sót lại và nó lấy đi của tôi một bàn chân và nó cũng lấy đi cái ước mơ được tiếp tục lên giảng đường đại học của tôi. Nhiều người thấy tôi cà thọt cứ cho tôi là thương binh chế độ cũ, chắc ông cũng tưởng như vậy.
Từ đó đến nay là một quãng thời gian khá dài, xin nói vắn tắt lại là tôi đã làm đủ nghề kiếm sống, trước khi chọn nghề bán vé số.
Ông đừng tưởng tôi lợi dụng cái thân xác không lành lặn để đánh vào tâm lý thương hại của mọi người. Không đúng đâu, dù bán vé số nhưng cũng phải sỉ diện chứ, mời họ không mua thì đi chỗ khác bán, tôi chưa hề cầm tờ vé số đi nài nỉ từng người.
Tôi ngờ ngợ ông cũng nghĩ về tôi như vậy và đang có ý định viết về tôi bằng sự thương hại lầm lẫn thường tình của người đời. Nói ông đừng giận. Ông cũng lầm. Ngược lại, tôi thương hại ông thì có.
3. Không đợi mời, gã bán vé số chộp chai rượu rót đầy ly rồi ực một cái:
- Xin lỗi, từ hồi theo nghiệp bán vé số tới giờ tôi ăn nói có phần bổ bã, ông đừng để ý và cũng đừng mở sổ tay ghi chép làm gì. Lời nói tôi không giúp gì cho ông đâu, và phải biết quên nó, kẻo mất ngủ.
Ông nhà văn nhón một miếng cóc ngâm muối chìa cho gã đưa cay, bàn tay kia vẫn tỳ lên cái bìa sổ tay.
Gã bán vé số vừa nhai vừa nói:
- Không có nghề nào không cực nhọc, tôi dầm mưa dãi nắng, đi bán. Cực, nhưng tối về ngủ thẳng cẳng, không suy nghĩ, âu lo. Còn ông, tôi thấy có đêm ông chong đèn tới sáng bên chồng sách trang giấy mà không biết có viết được chữ nào, rõ ràng ông cực hơn tôi. Hồi thời trai trẻ mơ mộng, tôi cũng đã từng trải qua những đêm như vậy, nên thấy thương ông.
Hồi đó tôi viết vì nhu cầu giải tỏa tâm lý, trong đó có sự tự huyển hoặc mình sẽ trở thành nhà văn. Còn ông đã trở thành nhà văn, có lẻ viết để kiếm tiền là chính.
Nếu đúng như vậy thì ông thêm một lần nữa mắc phải sai lầm. Bởi về thu nhập, người bán vé số -  tôi hơn người - nhà văn ông là cái chắc. Mỗi ngày tôi chỉ cần bán vài ba trăm tờ, kiếm chừng vài trăm ngàn đồng, tính bình quân hàng năm tôi cũng có trên 60 triệu đồng, biết gói ghém thì đủ sống và dành dụm nuôi con ăn học. Căn nhà của tôi, dù không to đẹp hoành tráng nhưng vẫn hơn nhà của ông, ít nhất về mặt tiện nghi. Còn ông, cặm cụi mãi một năm, ông kiếm được bao nhiêu. Sách ông in ra người ta trả ông bao nhiêu tiền nhuận bút. Tính bình quân mỗi ngày ông được bao nhiều tiền ? Ở đây ba năm rồi, tôi thấy ông chưa ra nổi quyển sách.
Xin ông đừng mủi lòng. Tết này ông chưa sắm nổi bộ đồ cho ông đúng hôn ? Còn mấy đứa trẻ ? Tôi nghĩ nếu ông không có bà vợ bán cháo lòng ngoài vỉa hè kia, không biết ông sống bằng gì.
Đó là tôi chưa nói tới, nếu một ngày nào đó, bà vợ ông sẽ nảy sinh ý nghĩa thực dụng hơn, thấy thằng chồng không làm ra tiền, bả bỏ ông như chơi. Nói ra thì giống như xúc phạm, chứ thời buổi này, đàn bà họ ghê gớm lắm. Ông có nghe vụ án vợ một nhà báo đốt chồng hôn ? Có lẻ, đối với ông có thể đó là chuyện cá biệt. Nhưng chuyện cá biệt ấy lại biểu thị của sự tha hóa đạo đức một cáh cùng cực, nó bôi nhọ truyền thống và hình ảnh đẹp đẽ của những người vợ “gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non” trong câu thơ của Tú Xương, chắc ông rất thuộc và hy vọng bà vợ ông cũng biết. Thôi không nói chuyện đàn bà nữa. Tôi xin quành lại về cái nghề của ông đây.
- Tất nhiên về địa vị xã hội không ai đề cao và không ai lại đi so sánh giữa một văn sĩ dù chưa nổi tiếng với một gã què bán vé số.
Tôi hiểu trách nhiệm cao cả của nhà văn là bồi đắp tâm hồn, tình cảm con người, góp phần xây dựng xã hội tốt đẹp. Nhưng tôi không quan tâm cái trách nhiệm có vẻ phù phiếm ấy đâu. Trách nhiệm của tôi là “bán vé số nuôi con học để có thể thành tài”. Còn ông ? Những trang viết liệu có đem lại điều ấy không khi mà cuộc đời đã ngoảnh mặt với loại văn chương dù có phù phiếm hay không. Còn chuyện góp phần xây dựng bồi đắp tâm hồn, tình cảm con người thì ông đừng mơ. Họ không đọc thì họ học được gì ở các trang viết nhạt còn hơn nước ốc của các nhà văn ông chứ. Thiên hạ ngày nay đang chúi mũi kiếm tiền và cắm đầu hưởng thụ, họ không rảnh đâu !
Ông thấy thằng cha làm nghề hốt rác ở thị trấn này hôn ? Hắn ăn lương nhà nước hẵn hoi, nhưng xử sự như thế nào với công việc. Tới cửa nhà giàu hắn quét rất nhiệt tình, rất sạch, còn đi ngang nhà nghèo, hắn cứ lờ đi, bỏ những bọc ni lông vương vãi cho chủ nhà tự xử. Ông biết vì sao hôn ? Một chân lý đơn giản là hốt rác của nhà giàu thì có thêm tiền boa... Nói về sự tha hóa của con người đâu cần phải đao to búa lớn làm gì, chỉ một chi tiết như vậy đủ để các nhà văn như ông thấy.
Còn nữa, nhà văn mang một sứ mệnh cao cả  là chia sẻ nổi đau và đem lại nguồn hạnh phúc cho mọi người, nhưng những trang viết của ông, xin lỗi tôi so sánh hơn khập khiểng giữa trang văn và những tờ vé số, nhưng tôi thấy rõ ràng, tờ vé số của tôi đem lại niềm vui cho mọi người nhiều hơn. Tôi không nói việc họ trúng số đâu. Chơi vé số như mò kim đáy biển, cò ỉa miệng ve. Nhưng mỗi ngày người ta bỏ ra mươi ngàn đồng để mua lấy niềm hy vọng sự vào may mắn đổi đời. Niềm hy vọng ấy dù xa vời nhưng có thật.  

4. Chỉ có một điều tôi hơi buồn là trong các bản thống kê đời sống xã hội, người ta không xếp bán vé số là một nghề, lại không xếp vào loại thất nghiệp. Trong khi đó về trách nhiệm công dân, tôi là người góp phần kiến thiết đất nước nhiều hơn ông. Ông thấy mỗi tờ vé số đều in như vậy mà, có tỉnh người ta thu ngân sách rất cao từ vé số.
Tóm lại, nghề nào cũng cao quí cả, đúng hôn ? Nhưng thời buổi này sự cao quí được cân đong đo đếm cụ thể bằng việc làm của mình đối với bản thân, gia đình và xã hội, đem lên bàn cân so sánh, tôi vẫn nhiều hơn ông về lượng.
Như vậy ông hơn tôi cái gì nào ?
Nếu không hơn thì xin ông một điều cuộc gặp hôm nay là để tôi chia sẻ với ông chứ không phải để ông tìm hiểu gia cảnh của tôi mà cố viết nên những dòng cảm thông, thương hại. Mọi người đọc, họ cười cho.
Lời thật mất lòng. Ông đừng nổi nóng, tôi nghe có người nói nhà văn chỉ được phép buồn, không được phép nổi giận.
Năm sắp hết, tết sắp đến, tôi mượn hoa kính phật mời ông ly rượu này. Và khuyên ông tranh thủ viết cái gì nhanh lên, xào nấu kiểu mì ăn liền như nhiều người đã làm ấy, để có tiền mà mua chút rượu thịt vui xuân. 

Tiết lập Đông, năm 2012

 Nguyễn Ngọc Phan

Chủ Nhật, 15 tháng 9, 2013

Vàng giả phủ lên vàng thiệt

Đó là thực trạng của đình Long Trung nằm cạnh ngã ba rạch Trà Tân và rạch Ông Bảo thuộc ấp 17, xã Long Trung, H.Cai Lậy, Tiền Giang, do dân làng Mỹ Đông Trung lập vào cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19. 

Mỹ Đông Trung đình xưa

Theo tài liệu còn lưu giữ ở địa phương thì ban đầu chỉ là ngôi đình gỗ lá đơn sơ, gọi là Mỹ Đông Trung đình. Đến năm 1932, khi hai làng Hưng Long và Mỹ Đông Trung sáp nhập lại với tên gọi mới Long Trung, từ đó đình cũng lấy tên theo.

Thời Pháp thuộc, đình Mỹ Đông Trung được trùng tu nhiều lần. Căn cứ dòng lạc khoản ghi trên 2 bức hoành xưa còn giữ lại được thì có lẽ năm Đinh Dậu (1897) là đợt trùng tu quy mô nhất. Các cụ cao niên kể lại rằng bấy giờ có một nhà nho đến làng Mỹ Đông Trung mở trường dạy học và kêu gọi dân trong vùng góp công, góp của xây dựng lại ngôi đình. Sau đó, nhiều nhà hảo tâm và phú hộ tiếp tục hiến cúng các tác phẩm nghệ thuật như hoành phi, câu đối... Các bức chạm xưa hầu hết do ông thợ Sửu - một nghệ nhân nổi tiếng trong vùng thực hiện.

Qua hàng trăm năm tồn tại, ngôi đình được xem là đẹp nhất vùng. Đình Long Trung được xây dựng theo mô hình nhà rường kiểu Huế gồm 3 dãy: chánh điện, võ ca và nhà hậu với diện tích hơn 500 m2, bằng các loại gỗ quý. Kèo, xiên, trính được chạm trổ và kết cấu bằng hệ thống mộng, chốt rất tinh vi, chắc chắn. Nền đình lót gạch tàu, mái lợp ngói âm dương. Nóc đình trang trí lưỡng long tranh châu, lân, cá hóa long... đều là những tác phẩm của lò gốm Cây Mai vào đầu thế kỷ 20.

Chánh tẩm được xây dựng theo kiểu 3 gian 2 chái, cột gỗ tròn có đường kính hơn 3 tấc, kê trên các tảng đá vuông, các đôi long trụ có gắn liễn đối chạm rời, ốp vào. Đây là khu vực tập trung nhiều tác phẩm mỹ thuật được tạo hình rất sinh động. Khu vực võ ca là nơi tổ chức xây chầu hát xướng trong dịp lễ Kỳ Yên nên có diện tích lớn hơn. Ông Võ Thanh Hùng, Phó ban Quản lý đình, cho biết hồi xưa hai bên sân khấu võ ca có thiết kế các bậc gỗ dành cho khán giả ngồi xem hát. Nhưng đến những năm 1980, do không ai quản lý và được trưng dụng làm kho phân bón nên bị người ta cắt lấy gỗ. Một số bài vị tiền hiền, hậu hiền sơn son thếp vàng cũng bị mất. 4 tượng gỗ bố trí ở 4 góc cột chánh điện cũng bị chẻ làm củi chụm, còn gạch nền mục hết, mái ngói dột nhiều chỗ. Rất may những bức hoành treo ở võ ca trước chánh tẩm do cao quá nên không bị phá.

Ngày xưa đường thủy thuận tiện hơn nên cổng chính của ngôi đình được xây hướng ra phía ngã ba sông. Mỗi dịp Kỳ Yên dân làng đóng bè thủy lục rước sắc thần. Năm 1936 ông Hồ Đắc Thăng cúng tiền xây dựng cổng đình theo mô típ trụ biểu như đình miền Bắc, không có mái gác ngang, đồng thời ông nhờ cụ Đặng Thúc Liêng viết câu đối hai bên cổng. Đến sau năm 1975, cổng này vẫn còn.

Trùng tu không đúng nguyên bản

Năm 1999, đình Long Trung được Bộ VH-TT-DL xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia và sau đó không lâu thì đình được trùng tu. Ngoài việc sơn phết lại nội thất, kiến trúc ngôi đình được giữ nguyên, chỉ lót lại gạch mới và thay mái ngói, nhất là giữ lại bộ giàn trò ở chánh điện và võ ca. Riêng cổng đình thì được sửa lại quay ra hướng chợ Ba Dừa để thuận đường bộ, vì vậy mặt tiền ngôi đình xưa được bít ngang làm hàng rào. Nhưng cái cổng cũ không được di dời hay phục chế lại mà xây mới theo lối kiến trúc thường thấy ở các công trình được trùng tu gần đây: cổng tam quan, mái cong.

Sau mười năm trùng tu, sửa chữa, các tác phẩm mỹ thuật đình Long Trung hiện thời đã xuống cấp thê thảm. Ông Võ Thanh Hùng bức xúc: “Các bộ biển liễn, hoành phi, câu đối xưa rực rỡ lắm, còn bây giờ vàng không ra vàng, trắng không ra trắng. Các bức chạm con nạ gắn trên đầu cột hay bộ long, lân, quy, phụng trên bộ long trụ cũng bị sơn lại nay xỉn màu hết. Hai cây cột phía trong chánh tẩm xưa được sơn then (chất liệu chế từ nhựa cây sơn) rất bóng, khi trưng bày bông hoa, trái cây sẽ tương phản, làm nổi bật bàn thờ thần. Khi trùng tu đáng lẽ giữ nguyên và chỉ cần chùi rửa lại, họ sơn màu đen tối thui, mất hết giá trị. Toàn bộ các tác phẩm thếp vàng xưa thì bị lấy vàng giả (nhũ vàng) phủ lên vàng thiệt”.



Khi được hỏi vì sao lúc thi công hội đình không có ý kiến, ông Hùng bảo: “Họ đâu có cho mình tham gia. Không được giám sát, không góp ý gì hết. Làm xong thì họ bàn giao cho tỉnh, huyện, người trong hội cũng không được chứng kiến buổi bàn giao”. Hiện nay mái đình đã xuất hiện vài chỗ dột, bên trong có 3 khánh thờ và bàn hội đồng bằng gỗ đã mục. Còn bức hoành phi đẹp nhất khắc bốn chữ Mỹ Đông Trung đình lại rớt mất chữ “đình”.

Tấm hoành rớt mất chữ "đình"
Cách đây không lâu, Bộ VH-TT-DL có cử cán bộ vào xem xét tính toán việc trùng tu tiếp như thay lại ngói, táng đá… và gợi ý thay cửa chánh tẩm. Nhưng hội đình không đồng ý vì cửa còn tốt, trám cửa chạm tùng, cúc, trúc, mai, bao lam trên cửa chạm phụng còn y nguyên, nếu gỡ xuống sẽ hư. “Đình xưa có hai lớp cửa, gài song hồng, nhưng sau khi trùng tu đã tháo bỏ lớp phía trong. Nay sợ mấy ổng thay bằng cửa sắt thì hỏng hết. Còn các tấm táng cột đình xưa bằng đá, khi trùng tu lại thay bằng táng xi măng. Số táng cũ thì chôn vùi xuống nền, số còn lại tứ tán đâu hết, giờ lại muốn thay bằng táng đá, không thể hiểu nổi”, ông Hùng lắc đầu nói.

Thời Pháp thuộc, trước làn sóng văn hóa Tây phương tràn vào, nhiều địa phương với mục đích bảo tồn văn hóa dân tộc đã trùng tu nhiều ngôi đình quy mô đồ sộ, ngày nay xứng tầm là di tích cấp quốc gia như đình Long Trung. Thế nhưng, sau khi được xếp hạng, trùng tu, di tích mau xuống cấp và không còn giữ lại được nét đẹp thuở xưa. 


Ngọc Phan - Hoàng Phương

Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2013

Trùng tu tiền tỉ, cửa vẫn tạm bợ

Đó là chuyện xảy ra ở đình Đồng Thạnh (tọa lạc tại ấp Lợi An, xã Đồng Thạnh, H.Gò Công Tây, Tiền Giang), một công trình được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia vào năm 2009.  

Ngôi đình độc đáo
Đồng Sơn đình trung (tức đình Đồng Thạnh hiện nay)
Ảnh tư liệu năm 1925
Theo người dân địa phương thì vùng Đồng Sơn ngày xưa có hai ngôi đình, gồm Đồng Sơn đình thị và Đồng Sơn đình trung. Trong đó Đồng Sơn đình thị (còn gọi là đình Rạch Lá) có niên đại xưa nhất. Theo nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường thì vào năm 1864, khi Pháp đánh Gò Công, Đồng Sơn đình thị bị sập, mấy lá sắc phong thời vua Tự Đức đã mất hoặc bị cháy. Sau đó, quân viễn chinh Pháp chiếm ngôi đình làm tháp canh. Khoảng đầu thế kỷ 20, ông Huỳnh Ngọc Khiêm cắt một phần đất lập làng Trường Xuân, rồi mấy năm sau họ Huỳnh cất một đình cho làng này. Nhưng đến năm 1915 thì làng Trường Xuân và làng Bình Sơn bị chính quyền thực dân nhập vào Đồng Sơn. Vì vậy đình vừa cất xong thì phải đổi tên là Đồng Sơn đình trung để phân biệt với Đồng Sơn đình thị cũ. Năm 1979, xã Đồng Thạnh được thành lập từ một phần xã Đồng Sơn và một phần xã Thạnh Trị và tên đình cũng được đổi thành đình Đồng Thạnh.

Đình Đồng Thạnh sau khi trùng tu
Đình Đồng Thạnh được xây dựng theo lối kiến trúc kết hợp đông tây, nền cao gần một mét, có bậc tam cấp, nền lót gạch Tàu, vách tường, cột làm bằng gỗ căm xe và gạch, mái lợp ngói ống và ngói âm dương. Nóc đình được trang trí lưỡng long tranh châu, cá hóa long bằng gốm sứ. Vì được xây dựng theo lối kiến trúc Pháp nên ngoài cửa chính còn có nhiều ô cửa thiết kế theo kiểu hình vòm, trang trí nhiều hoa văn Tây, cửa sắt tương tự những ngôi nhà phú hộ ở vùng này hồi đầu thế kỷ 20. Ngoài khu vực chính tẩm và võ ca còn có nhà việc làng cũng nằm trong quần thể kiến trúc ngôi đình. Nét đặc sắc nhất của ngôi đình này là nghệ thuật chạm khắc, trang trí hoa văn trên hệ thống kèo, xuyên, trính và nhiều bức tranh đắp nổi trên tường, cùng các loại tượng gốm trang trí bên trong và bên ngoài đình như: tứ linh, tứ quý, bát tiên, cá hóa long...
“Không có ký lô nào so với thời xưa”
Sau khi đình Đồng Thạnh được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia, Sở VH-TT-DL Tiền Giang lập dự toán trùng tu lại đình với tổng kinh phí hơn 16 tỉ đồng, từ nguồn chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa. Công trình được trùng tu gồm 4 hạng mục: chính điện - võ ca, nhà việc hội đồng làng, nhà khói và sân - đường - cổng... do  Công ty CP xây dựng và phục chế công trình văn hóa và Công ty CP xây dựng công trình văn hóa (Hà Nội) thi công. Giám sát là Công ty TNHH tư vấn xây dựng Đại Việt (Tiền Giang). Thế nhưng, sau khi nhận bàn giao, công trình đã để lại niềm vui không trọn vẹn cho người dân.
Theo ông Phạm Văn Huệ (người bảo vệ đình) thì: “Việc thi công trùng tu lại ngôi đình được ngoài bộ cử người vô thực hiện. Gỗ lim thay dàn cột cũng chở từ miền ngoài vào... Còn bộ xuyên, trính, vĩ kèo cái nào có hoa văn xưa thì xẻ lớp ngoài lấy hoa văn lại, rồi dùng keo dán vô gỗ mới, làm như vậy không biết ngày nào nó bung ra”. Trong khi đó, những bức tranh đắp nổi ở vách võ ca đã bị vẽ lại và sơn phết, màu sắc nhòe nhoẹt không còn đường nét cũ. “Trước khi trùng tu thấy có quay phim, chụp ảnh đàng hoàng. Không hiểu sao họ vẽ lại quá xấu, không có ký lô nào so với thời xưa”, ông Huệ bức xúc.
Khi được hỏi vì sao trong lúc trùng tu người địa phương không góp ý, ông Huệ cho biết: “Trong ban xây dựng không có người địa phương. Bên công trình cũng không làm theo ý kiến đóng góp của dân sở tại. Ví dụ như nền cũ gạch phủ trên táng, lót xéo theo hình mắt cáo, nhưng khi trùng tu lại lót vuông, táng thì lộ trên nền gạch. Thực ra lớp cát đổ thêm chừng một tấc để phủ táng có bao nhiêu tiền đâu. Nhưng các cụ góp ý thì những người thi công nói bản vẽ sao thì họ làm y vậy”. Cũng theo ông Huệ thì trước khi trùng tu, tỉnh có đem bản vẽ ra trình bày, nhưng ban quản lý đình không có ý kiến vì không nắm được.
Tuy nhiên, vấn đề mà người dân rất bức xúc là kinh phí đầu tư cho ngôi đình này quá lớn so với các công trình tương tự ở địa phương nhưng nhiều hạng mục lại bị bỏ dở dang. Ví dụ như cửa chính tẩm nhiều ô trám rớt mất cũng không được chạm gắn vào, cả 2 cổng chính và phụ đều được đóng tạm bợ bằng nẹp tre, rất phản cảm. Một vị trong ban bảo vệ đình nói: “Hồi dỡ đình ra làm lại còn rất nhiều gỗ cũ xài được, chúng tôi định xin lại để làm cổng nhưng không được, mấy ổng đem thanh lý hết. Riêng các hạng mục còn dang dở thì tỉnh hứa sẽ làm, Sở VH-TT- DL tỉnh cũng đã cử cán bộ xuống đo đạc, tính toán, nhưng đến nay vẫn bặt tăm”. 


Hoàng Phương - Ngọc Phan

Còn đâu chiến lũy Pháo Đài xưa

Chiến lũy Pháo Đài nằm ngay cửa Tiểu, thuộc ấp Pháo Đài, xã Phú Tân, H.Tân Phú Đông, Tiền Giang. Đây là một di tích đồn lũy biên phòng hiếm hoi còn sót lại từ thời triều Nguyễn.

Sai lệch lịch sử.

Theo nội dung ghi lại trên tấm bia tóm tắt lịch sử di tích thì: “Để bảo vệ cửa Tiểu, năm Minh Mạng thứ 15 (1834) triều đình nhà Nguyễn cho xây dựng tại đây một bảng bằng đất, gọi là đồn Từ Linh, chu vi 60 trượng (378 m), cao 5 thước 5 tấc (2,57 m), mở 2 cửa. Năm Thiệu Trị thứ 3 và thứ 7 (1843 và 1847) được sửa chữa lại.
Sau khi thành Định Tường thất thủ (tháng 4.1861), Trương Định trở về Tân Hòa xây dựng căn cứ kháng Pháp, đồn Từ Linh được sử dụng làm chiến lũy, gọi là lũy Pháo Đài, có trang bị súng thần công loại lớn. Suốt cả quá trình tồn tại, chiến lũy Pháo Đài đã cùng nghĩa quân trấn giữ một cửa biển quan trọng của đồng bằng sông Cửu Long”.

Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường cho rằng ở đây có chỗ viết sai chữ “bảo” thành chữ “bảng”. Theo ông Tường thì: “Bảo là đồn nhỏ đắp bằng đất, hoặc là bờ lũy trong làng đắp để ngăn chặn giặc cướp. Nhưng không hiểu sao đã mười mấy năm nay không ai sửa lại cho đúng nghĩa”.
Căn cứ Đại Nam thực lục thì tháng 7 năm Minh Mạng thứ 15, Khâm phái Đốc biện Dương Văn Phong đã cùng quan tỉnh Định Tường đứng tên vào một tờ tấu, nói: “Trong tỉnh có thôn Từ Linh thuộc cửa Tiểu hải và thôn Minh Đức thuộc cửa Đại hải đều ở bãi biển, dân cư khá đông đúc, mà hai thủ sở cũ, số lính còn ít, không đủ canh phòng. Vậy xin lập ở mỗi thôn một thủ sở để coi giữ, lấy 100 hương dõng ở gần quanh, dồn làm 2 đội, lựa cử suất đội chia ra cai quản và làm công việc phòng thủ...”. Thủ sở này tồn tại đến năm Tự Đức thứ nhất (1848) thì quan tỉnh Định Tường tâu xin đặt pháo đài để phòng bị phía biển.
Đầu năm 1859, vua lại sai Trương Văn Uyển về Định Tường cùng với Tuần phủ Nguyễn Tường Vĩnh phòng giữ cửa Tiểu đắp thành đất, làm lỗ bắn súng và sắm sửa những khí cụ phòng bị đánh giặc. Sau khi thành Gia Định thất thủ, các đồn lũy ở cửa Tiểu tỉnh Định Tường đều đặt súng lớn và khí giới, phái lính đóng giữ, nhưng nhà vua cũng chưa yên tâm nên sai Nguyễn Duy cùng quan tỉnh Định Tường xem xét hình thế, sửa sang cho bền chặt chu đáo, tăng cường thêm quân trấn giữ.
Lúc này, đồn cửa Tiểu do Bố chính Đỗ Đệ trấn giữ, đã có cấp báo cho triều đình biết ngoài khơi có tàu của Tây dương đậu: Cửa Tiểu 1 chiếc tàu máy, cửa Đại 2 chiếc tàu máy. Vua nghe tin liền ra lệnh “những chỗ lính Tây dương có thể đi qua được, đường thủy thì lấp bằng đá gỗ, lập đồn đặt súng; đường bộ thì cấm hết đò ngang, chia quan phục để ngăn chặn”. Vì vậy các quan quân mới đắp thêm cản hàn cửa Tiểu gần đồn Từ Linh, dân gian gọi là Đập Đá hàn.
Gần đây có nhiều bài viết dựa theo tư liệu ghi chép ở tấm bia nói trên, cho rằng đồn Từ Linh được nghĩa quân Trương Định sử dụng làm chiến lũy nên gọi là chiến lũy Pháo Đài. Sai sót này dường như khởi nguồn từ những ghi chép về Ông súng Cà Lăm của tác giả Việt Cúc trong tập Gò Công cảnh cũ người xưa in năm 1969 - bản in có cả ảnh chụp vị trí khẩu súng. Theo mô tả của tác giả Việt Cúc, vào tháng 8.1968, ông có đến đây và phát hiện một khẩu súng thần công khuất lấp trong cây cỏ rậm rạp. Trước đó mấy mươi năm, ở đây có ngôi miếu nhỏ, một ông từ tên Chọn lo việc sửa sang ngôi miếu, làm cỏ đốn cây, dọn chỗ trống cho “Ông Súng nằm sạch sẽ”.
Căn cứ vào nội dung mô tả ở quyển sách trên mà di tích chiến lũy Pháo Đài được thêm vào đoạn lịch sử tưởng tượng để khẳng định “Đây là một trong những di tích gắn liền với sự nghiệp của anh hùng Trương Định”. Thế nhưng, ghi chép của các sĩ quan quân đội viễn chinh Pháp cho thấy, khi tiến đánh Định Tường họ đã chia nhiều mũi để giương đông kích tây. Trong lúc mũi quân khác còn ì ạch vất vả trong kênh Nhà Dây Thép thì ngày 10.4.1861, thiếu tướng hải quân Page với 3 chiếc tàu Fusée, Lily và Shamrock hiệp với chiếc Dragonne đã đến đậu ở cửa Tiểu. Trong đêm giặc phá được một lỗ hổng ở cản hàn và vượt qua tầm đạn của đồn Từ Linh bắn ra. Sau đó, họ tiếp tục phá cản hàn tại vàm Kỳ Hôn để đánh chiếm Định Tường từ hướng sông Tiền vào trưa 12.4.1861.
Sau khi thành Định Tường bị chiếm, ngày 23.6.1861 Trương Định khởi nghĩa tại đất Gò Công. Ngoài các căn cứ ở Sơn Quy, Rừng Lá Gia Thuận, Lý Nhơn..., chưa có tài liệu nào đề cập đến căn cứ ở đồn Từ Linh. Mặt khác, Bình Tây đại tướng quân là một thủ lĩnh giỏi quân sự, lẽ nào ông lại chọn đất ở mũi cù lao - nơi không đắc địa, không nguồn hậu cần và dễ dàng bị hải quân Pháp bao vây cô lập như vị trí đồn Từ Linh để xây chiến lũy!
Tôn tạo sơ sài
Ngày nay, muốn đến chiến lũy Pháo Đài, một di tích được xếp hạng cấp quốc gia, du khách phải đi qua một con đường hẹp chừng 80 cm trải đá dăm, ngoằn ngoèo, hai bên cỏ dại mọc đầy trông hoang vu tiêu điều, mặc dù cách đó chừng 500 m là con lộ lớn được trải nhựa. Nằm ở nơi hẻo lánh, đường đi không tiện, lại thêm cảnh quan di tích còn sơ sài, đơn điệu nên rất ít người đến tham quan, chỉ khi tới ngày lễ giỗ anh hùng Trương Định hằng năm mới có vài phái đoàn đến viếng.
Vào năm 2000, Sở VH-TT-DL Tiền Giang tiến hành tôn tạo di tích Pháo Đài. Nhưng thay vì đắp lại cái bảo xưa theo tài liệu mô tả và theo dấu tích còn lưu lại như bờ thành, hệ thống hào, ụ súng… thì người ta lại cho lát bê tông xung quanh bờ thành lục giác, rồi xây ở giữa một nhà bia, thêm một cái giếng nông… không có dấu ấn gì của đồn bảo thuở xưa. Riêng hào xung quanh giờ đã lấp cạn, dừa nước và các loại cây dại mọc đầy. Nhà bia xây dựng cũng với cột bê tông, nền tôn cao gần 2 m, mái ngói cong trang trí lưỡng long tranh châu, tương tự như mô hình nhà bia ghi danh liệt sĩ thường thấy ở các xã thuộc Tiền Giang.


Ngọc Phan- Hoàng Phương 

Thứ Năm, 12 tháng 9, 2013

Chùa Vĩnh Tràng mất dần nét xưa

Với lịch sử hơn 150 năm và được xếp hạng di tích văn hóa cấp quốc gia, nhưng sau những lần trùng tu, chùa Vĩnh Tràng (ấp Mỹ An, xã Mỹ Phong, TP.Mỹ Tho, Tiền Giang) cũng gây ra nhiều ý kiến đáng lưu ý.

Chùa cổ đẹp nhất vùng.

Là ngôi chùa có lối kiến trúc độc đáo nhất Nam bộ, điểm nhấn của chùa Vĩnh Tràng là cổng tam quan với nghệ thuật ghép mảnh sành, sứ. Từ màu sắc của các loại sành sứ, những nghệ nhân xưa đã khéo léo xếp đặt thành nhiều bức tranh minh họa sự tích nhà Phật, truyện tích dân gian, đề tài tứ linh, tứ quý, hoa lá, mây trời… với sự hòa sắc tuyệt vời như tranh vẽ. Các bức thủ quyển mềm mại ghi những câu Phật hiệu bằng nét chữ điêu luyện: Trấn tịnh sơn môn, Quảng đại nguyện môn, Tịnh độ huyền môn…


Bên trong chùa là nơi tập trung nhiều tác phẩm mỹ thuật của các thế hệ nghệ nhân khắp ba miền Trung, Nam, Bắc. Chẳng hạn như giữa lòng cột cái là bộ bao lam bát tiên kỵ thú. Tác phẩm này ra đời vào khoảng năm 1907 - 1908 do những nghệ nhân tại địa phương thực hiện. So với các bộ bao lam xung quanh, bộ này có niên đại sớm hơn, nhưng đạt trình độ mỹ thuật cao hơn. Đây là một bức phù điêu hiếm có của những năm đầu thế kỷ 20, chứng tỏ nghệ thuật tạo hình ở Nam bộ phát triển khá sớm. Bốn cột cái của chùa Vĩnh Tràng đều treo long trụ. Đôi phía ngoài chạm tứ linh do bà Lê Thị Ngởi ở Ba Tri (Bến Tre) hiến cúng vào năm 1909. Nét đặc biệt là đôi long trụ này có lối sắp xếp bố cục độc đáo có một không hai: chạm chim phượng đứng trên đầu rồng. Có thể nói toàn bộ cái đẹp của chùa Vĩnh Tràng đều tập trung vào nghệ thuật tạo hình, trong đó phần tượng chiếm đa số.
Chùa Vĩnh Tràng được xây dựng vào năm 1849, từ đó đến nay đã qua nhiều đợt trùng tu, mỗi đợt đều có bổ sung những tác phẩm mỹ thuật từ hoành phi, long trụ, tượng thờ... Các di sản văn hóa ấy chứng minh rằng đất Mỹ Tho xưa sớm phát triển nghệ thuật tạo hình. Điển hình là nhiều bộ tượng bằng gỗ, bằng đồng, thậm chí bằng đất sét, sơn son thếp vàng như bộ tượng Thập điện đều đạt đến trình độ hoàn mỹ. Đặc biệt là bức chân dung hòa thượng Trà Chánh Hậu tại nhà tổ. Nhiều cụ cao niên kể lại rằng đương thời hòa thượng Trà Chánh Hậu không thích chụp ảnh, vì vậy nhà điêu khắc phải tiếp xúc thường xuyên với ông để thực hiện công trình này. Tượng rất sống động giống như người thật.
Cổng chùa Vĩnh Tràng hiện nay (Ảnh HP)
Nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường xác định những pho tượng đẹp nhất của chùa này là nhóm tượng bằng gỗ do thầy trò nghệ nhân Tài Công Nguyên thực hiện khoảng đầu thế kỷ 20. To nhất là tượng Di Đà do ông Tống Hữu Trung ở Vĩnh Long hiến cúng. Ngoài ra còn có tượng Hộ Pháp khuyến thiện trừng ác… đều là những tác phẩm rất độc đáo. “Bộ La Hán chùa Vĩnh Tràng cũng không kém về mặt nghệ thuật so với các vị La Hán chùa Tây Phương. Nét khác biệt là nó được tạc bằng gỗ. Các vị La Hán đều cưỡi thú, tay cầm bửu bối. Lối đặc tả của nhóm tượng này cũng mang dáng dấp riêng, rất Nam bộ, nhưng lại thành công trong việc mô tả cảm xúc đặc trưng của từng vị La Hán, chứng tỏ ngoài tay nghề, tác giả còn khá am tường giáo lý nhà Phật”, ông Tường nhận định.

Vẽ râu, thêm tóc cho tượng 

Có thể nói chùa Vĩnh Tràng là bản tổng kết lịch sử mỹ thuật của đồng bằng sông Cửu Long. Tiếc rằng do cách làm thiếu ý thức của người thời nay đã làm mất đi giá trị các tác phẩm tiền nhân. Ngoài việc xáo trộn, sơn phết các tượng Phật, trong đó có bộ La Hán kỵ thú nêu trên, thậm chí người ta còn làm chuyện khôi hài như vẽ râu tượng ông Huỳnh Trí Phú thay vì chỉ đắp lại sống mũi bị gãy. Ngoài ra, hai bức tượng kiệt tác hòa thượng Trà Chánh Hậu và hòa thượng Minh Đàn còn bị dán giấy trang kim xanh đỏ và vẽ thêm tóc… Trong khi đó thì ở phía sau chánh điện lại dán thông báo của Ban quản lý: “Cấm mọi hình thức di chuyển, thay đổi hình dạng các di vật, cạo gỡ các hoa văn, vẽ bậy, bôi bẩn...”.
Một số người kể lại rằng, ngày xưa ở 2 cổng chùa Vĩnh Tràng có đặt 2 pho tượng của hòa thượng Trà Chánh Hậu và hòa thượng Minh Đàn. Lúc bấy giờ hòa thượng Trà Chánh Hậu đã viên tịch, hòa thượng Minh Đàn còn sống nên có người đặt ca dao châm biếm khiến hòa thượng hổ thẹn nên đã đem hai pho tượng này xuống. Mấy năm sau khi hòa thượng Minh Đàn qua đời, tín đồ nhớ ơn công đức hai vị nên đã đem tượng đặt lại chỗ cũ. Qua thời gian, 2 cổng chùa bị lún và nghiêng, vì vậy năm 2003 ban trị sự chùa đã mời “thần đèn” Cẩm Lũy đến chỉnh sửa. Nhưng sau đó, người ta thấy sân chùa được tôn tạo lại, hàng cây sao cổ thụ dẫn vào chùa bị đốn bỏ rồi xây dựng những bức tượng Phật cao đến hàng chục mét khiến cảnh chùa giống như một công viên tượng Phật.
Theo ông Trương Ngọc Tường thì: “Việc thay thế 2 pho tượng hòa thượng Trà Chánh Hậu và hòa thượng Minh Đàn bằng tượng Phật Di Đà ở 2 cổng là việc làm cẩu thả, bởi vì câu đối khoán thủ hai bên cổng có nội dung ca ngợi 2 vị tổ Chánh Hậu và Minh Đàn”. Đó là chưa nói tượng Phật Di Đà cao 18 m, đặt trên bệ 6 m, có sự trái ngược là Phật Di Đà phóng quang lại giơ tay trái lên, tay phải chỉ xuống đất. Điều này, theo hòa thượng Thích Thanh Từ thì tượng Di Đà phóng quang là tượng đứng trên hoa sen lơ lửng trong hư không, bên dưới là bể cả sóng dậy chập chùng, mắt nhìn xuống, tay mặt đưa lên ngang vai, tay trái duỗi xuống như sẵn sàng chờ đợi tiếp cứu những người đang trầm mịch” (Thâm ý qua hình tượng Phật, Bồ tát, bản in 1967). 
“Những kiểu làm cẩu thả, đánh đố như vậy cần phải xem lại, bởi vì trong số khách du lịch đến viếng chùa có nhiều người nước ngoài và có cả bậc thức giả am hiểu chữ nghĩa, điển tích nhà Phật”, ông Tường nhấn mạnh.  


Ngọc Phan - Hoàng Phương