Tư liệu:
Đảo Hoàng Sa qua Đại Nam
thực lục.
Kỷ sửu, năm Minh Mệnh
thứ 10 [1829], mùa thu tháng 8, Thuyền của bọn A Sinh là người nước Chà
Và đậu ở đảo Côn Lôn trấn Phiên An, lính giữ đảo bắt đưa đến thành Gia Định.
Bọn Sinh nói là : “ở Ba La Sa (tên đất của nước Chà Và) được Quốc trưởng phái
đến đảo Câu Mạch để nhặt lấy sào yến bị bão trôi dạt”. Thành thần tâu lên. Vua
sai cấp gạo rồi cho về.
(Đệ
nhị kỷ - Quyển LXI)
Giáp
Ngọ, năm Minh Mệnh thứ 15 [1834], mùa xuân, tháng ba. Sai Giám thành đội trưởng Trương Phúc Sĩ cùng
thủy quân hơn 20 người đi thuyền đến đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi vẽ bản
đồ. Khi trở về, vua hỏi về những thứ sản vật ở đấy, Sĩ tâu : “Nơi này là bãi
cát giữa bể, man mác không bờ, chỉ có người đi lại đánh cá bắt chim mà thôi”.
Nhân đem dâng vua những thứ chim, cá, ba ba, ốc, sò ngao, đã bắt được ở nơi đó,
đều là những vật lạ, ít thấy.
Vua vời thị
thần đến xem và thưởng những người đi về, tiền, bạc có khác nhau.
(Đệ nhị kỷ - quyển CXXII)
Ất Mùi, Minh Mệnh năm thứ 16 [1835], mùa hạ,
tháng 6.
Dựng đền thờ thần ở đảo Hoàng Sa thuộc Quảng Ngãi.
Hoàng Sa ở hải phận
Quảng Ngãi, có một chỗ nổi cồn cát trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có
giếng, phía tây nam có miếu cổ, có tấm bài khắc 4 chữ “Vạn lý ba bình”(1) (cồn Bạch Sa [cát trắng] chu vi 1070
trượng, tên cũ là núi Phật Tự, bờ đông, tây, nam đều đá san hô thoai thoải uốn
quanh mặt nước. Phía bắc, giáp với một cồn toàn đá san hô, sừng sững nổi lên,
chu vi 340 trượng, cao 1 trượng 3 thước, ngang với cồn cát, gọi là Bàn Than
thạch). Năm ngoái vua toan dựng miếu lập bia ở chỗ ấy, bỗng vì sóng gió không
làm được. Đến đây, mới sai Cai đội Thuỷ quân là Phạm Văn Nguyên đem lính thợ
Giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, chuyên chở vật liệu
đến dựng miếu (cách toà miếu cổ 7 trượng). Bên tả miếu dựng bia đá; phía trước
miếu xây bình phong. Mươi ngày làm xong, rồi về.
(Đệ nhị kỷ - quyển CLIV)
Bính
Thân, Minh Mệnh năm thứ 17 [1836]. Bộ Công tâu nói: “Cương giới mặt biển
nước ta có xứ ([1])
Hoàng Sa rất là hiểm yếu. Trước kia, đã phái vẽ bản đồ mà hình thế nó xa rộng,
mới chỉ được 1 nơi, cũng chưa rõ ràng. Hằng năm, nên phái người đi dò xét cho
khắp để thuộc đường biển. Xin từ năm nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng
giêng, chọn phái biền binh thuỷ quân và vệ Giám thành đáp 1 chiếc thuyền ô,
nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, bắt 2 tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định
thuê 4 chiếc thuyền của dân, hướng dẫn ra đúng xứ Hoàng Sa. Không cứ là đảo
nào, hòn nào, bãi cát nào, khi thuyền đi đến, cũng xét xem xứ ấy chiều dài,
chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi và nước biển bốn bên xung quanh nông
hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình dị thế nào,
phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ. Lại, xét ngày khởi hành, từ cửa biển
nào ra khơi, nhằm phương hướng nào đi đến xứ ấy, căn cứ vào thuyền đi, tính ước
được bao nhiêu dặm. Lại từ xứ ấy trông vào bờ bến, đối thẳng vào là tỉnh hạt
nào, phương hướng nào, đối chênh chếch là tỉnh hạt nào, phương hướng nào, cách
bờ biển chừng bao nhiêu dặm. Nhất nhất nói rõ, đem về, dâng trình”.
Vua y lời tâu. Sai Suất
đội Thuỷ quân Phạm Hữu Nhật đem binh thuyền đi. Chuẩn cho mang theo 10 cái bài
gỗ, đến nơi đó dựng làm dấu ghi (mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc,
mặt bài khắc những chữ “Minh Mệnh thứ 17, năm Bính thân, Thuỷ quân Chánh đội
trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom đo đạc đến đây
lưu dấu để ghi nhớ”
Bính Thân, Minh Mệnh năm
thứ 17 [1836], mùa đông, tháng 12. Thuyền buôn Anh Cát Lợi đi qua Hoàng
Sa, mắc cạn, bị vỡ và đắm; hơn 90 người đi thuyền sam bản đến bờ biển Bình
Định. Vua được tin, dụ tỉnh thần lựa nơi cho họ trú ngụ, hậu cấp cho tiền và
gạo. Lại phái thị vệ thông ngôn đến dịch lời thăm hỏi, tuyên Chỉ ban cấp. Bọn
họ đều quỳ dài, khấu đầu không thôi. Sự cảm kích biểu lộ ra lời nói và nét mặt.
Phái viên về tâu, vua nói: “Họ, tính vốn kiệt hiệt, kiêu ngạo, nay được đội ơn
chẩn tuất, bỗng cảm hoá, đổi được tục man di. Thật rất đáng khen. Sai thưởng
cho thuyền trưởng và đầu mục, mỗi người 1 áo đoạn vũ hàng màu, 1 quần vải tây
và 1 chăn vải; các người tuỳ tùng mỗi người 1 bộ áo quần bằng vải màu. Sắc sai
phái viên sang Tây là Nguyễn Tri Phương và Vũ Văn Giải đưa họ sang bến tàu Hạ
Châu, cho về nước.
(Đệ nhị kỷ - quyển CLXV)
Kỷ Hợi, Minh
Mệnh năm thứ 20 [1839], mùa thu, tháng 7. Phái viên đi Hoàng Sa là
bọn Suất đội Thuỷ sư Phạm Văn Biện trước đây bị bão sóng làm tản mát, đến nay
lục tục về tới Kinh. Hỏi, chúng nói nhờ có thuỷ thần cứu giúp. Vua sai bộ Lễ
chọn địa điểm ở đồn cửa biển Thuận An đặt đàn dùng lễ Tam sinh hướng ra biển lễ
tạ. Thưởng tiền cho Phạm Văn Biện và viên biền binh, dân đi theo phái đoàn có
thứ bậc khác nhau.
(Đệ nhị kỷ - quyển CCIV)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét