NHỮNG TẬP TỤC
CƯỚI HỎI NGÀY XƯA
Theo lệ cổ, việc
cưới hỏi phải có sáu lễ (tục gọi là lục lễ) và một số lễ phụ khác. Tuy nhiên,
tại một số vùng ở Nam
bộ, xưa kia chỉ có hai lễ chính và ba lễ phụ, gồm:
+ Lễ chính: gồm lễ
hỏi, kết hợp lễ Nạp cát và Nạp trưng; Lễ cưới, tức lễ Thân
nghinh.
+ Lễ phụ: lễ coi
mắt, kết hợp lễ Nạp thái và Vấn danh; Lễ Sỉ lời, gốc
là Thỉnh kỳ; Lễ Phản bái, còn gọi là Nhị hỉ, hay nôm na là
giở mâm trầu.
Lễ vật chính của
hôn lễ gồm: nhà trai đem đến nhà gái trầu cau, rượu, trà, bánh trái...Nghi thức
chính trong lễ cưới tương tự như lễ hỏi là cô dâu, chú rể phải làm lễ tổ tiên,
ra mắt bà con thân tộc. Hai lễ vật không thể thiếu là nhà trai phải đem một đôi
đèn sáp dâng cúng tổ tiên nhà gái để chú rể làm lễ tổ tiên và phải tặng cô dâu
một đôi hoa tai, vật chứng tỏ đây là cô gái đã có chồng để cho cô ra chào bà
con hai họ. Khi cô dâu về nhà chồng phải
đem theo một đôi đèn sáp và một quả bánh cho chính tay cô làm, gọi là lễ vật
“tống hôn”, đem về cúng tổ tiên nhà chồng. Tục nầy về sau biến đổi và mất hẳn.
Xưa kia, trong
hai lễ cưới, hỏi, nhà trai phải đem đến nhà gái hai con lợn nhốt trong cũi, tục
gọi là heo đứng. Về sau thấy bất tiện, người ta thay thế bằng tiền, tục
gọi là heo nằm. Tục lệ xưa qui định lễ vật ngày cưới, nhà gái phải “lại
quả” cho nhà trai phân nửa. Riêng lễ vật ăn hỏi là lễ vật đầu nên nhà gái phải
nhận hết để ngày hôm sau chia thành nhiều phần đem biếu bà con, bạn bè, báo tin
con gái có chồng. Việc thách cưới khá phổ biến, nhưng ngoài trầu cau ra, nhà
gái không đòi hỏi gì khác.
Sau lễ ăn hỏi,
chú rể được hợp thức hóa bằng quyền gọi cha mẹ, ông bà bên vợ. Cũng trong
khoảng thời gian từ lễ hỏi đến ngày cưới, chú rể phải thực hiện “nghĩa vụ làm
rể” vào các ngày rằm, mồng một, ngày Tết, giỗ chạp...Nghĩa vụ nầy không khắt
khe lắm, tuy cũng có nhiều trường hợp chú rể phải lo phụ một số công việc lao
động sản xuất giúp nhà vợ. Ngày nay tục làm rể vẫn còn nhưng nội dung đã thay
đổi khá nhiều. Bên cạnh, trước ngày cưới khoảng tám hoặc mười ngày, đại diện
nhà trai và nhà gái phải đến chính quyền sở tại bên nhà gái đăng ký kết hôn,
gọi là “khai bát nhật”, hay“khai thập nhật” nhằm mục đích thông
báo, đề phòng đến ngày cưới có người ngăn cản.
Lễ cưới thường
kéo dài khoảng hai ngày: ngày hôm trước gọi là ngày nhóm họ, đãi đằng bà con
thân tộc, bạn bè. Ngày hôm sau là ngày đón dâu, nhà trai chỉ chiêu đãi nhà gái.
Về sau, lễ cưới tại nhà trai đơn giản hơn, chỉ có một ngày đón dâu kết hợp với
đãi họ và chiêu đãi nhà gái.
Việc trang hoàng
trong ngày cưới là một hoạt động mang tính văn hóa ở địa phương. Nhà trai, nhà
gái đều phải dựng trại trước sân nhà để đãi khách. Trại tiệc được trang hoàng,
chưng kết bằng hoa lá tươi có sẳn như lá dừa, bẹ chuối, lá đủng đỉnh, dây bòng
bong...Bảng chữ Tân Hôn hay Vu Qui cũng được thanh niên trong xóm kết bằng hoa
lá. Về trang phục, chú rể đầu chít khăn đen, mặc áo thụng, đi giày hàm ếch, hai
tay bưng quả đựng nếp và xâu tiền. Cô dâu cũng mặc áo thụng hai lớp, đầu đội
nón cụ, quai tơ, chân đi hài hoặc dép thêu...Ngoài ra, tất cả các thành viên
hai họ đều phải mặc quốc phục. Riêng hai ông sui và hai người đại diện cho hai
họ phải mặc lễ phục...Tất cả đều do thanh niên nam nữ trong xóm tự nguyện đến
phụ giúp.
Ngày rước dâu, họ
nhà trai phải đến sớm khoảng 10 phút để xin vào làm lễ đón dâu. Khách đón dâu
gồm bà mai, chú rể, cha mẹ chú rể và bà con thân thuộc, bạn bè...Qui ước bất
thành văn là đoàn người đi rước dâu phải là con số lẻ để khi trở về có thêm cô
dâu cho đủ đôi, đủ cặp. Tục lệ Nam
bộ, lễ vật rước dâu đặt trên mâm còn đối với người Hoa thì đặt trong quả. Xưa
kia, quan niệm giờ tốt rất quan trọng nên phải đến đúng giờ. Nhà trai cử người
bưng khay trầu rượu vào trình và phải chờ đại diện nhà gái ra ngỏ rước. Pháo
được đốt lên để đón nhà trai.
Nghi lễ chính
diễn ra sau khi tiếp nhận lễ vật. Bắt đầu là nghi thức chú rể cáo yết tổ tiên và
ra mắt nhà gái, tiếp theo nhà gái cử một người đại diện làm lễ lên đèn, hai họ
chúng kiến cho chú rể lạy bốn lạy. Sau khi ra mắt tổ tiên xong, chú rể đến làm
lễ ra mắt cha mẹ, ông bà, thân tộc bên vợ. Các nghi thức nầy ngày nay đã cải
tiến nhiều, chú rể chỉ xá thay cho lạy, kể cả tại bàn thờ tổ tiên. Cuối cùng,
cô dâu được người mẹ ruột đeo nữ trang, bước ra lạy từ giã tổ tiên, vái chào
cha mẹ, ông bà, thân tộc để xuất giá về nhà chồng.
Khi rước dâu về
đến nhà trai, pháo được đốt lên chào mừng. Chương trình lễ tiến hành tương tự
như ở nhà gái, chỉ có thêm lễ tế tơ hồng. Xưa, lễ tế tơ hồng tổ chức trong
phòng hoa chúc. Nghi thức gồm có dâng hương, rượu, trà...và các lễ vật lên bàn thần
Tình duyên. Thêm nghi thức mời rượu giao bôi và nghi thức hợp cẩn. Nhưng về
sau nầy, người ta thấy lễ nầy rườm rà bất tiện nên bày tục tế tơ hồng trước sân
nhà trai với nghi thức đơn giản hơn. Những năm gần đây, nghi thức tế tơ hồng đã
bỏ hẳn.
Sau ba ngày, đôi
tân hôn và một số bà con bên nhà trai mang một cặp vịt – tương trưng cặp uyên
ương (tượng trưng cho sự chung thuỷ) sang nhà gái thực hiện nghi lễ giở mâm
trầu, ngụ ý hôn lễ kết thúc tốt đẹp. Cặp vịt được nấu cháo cùng tổ tiên và
các vị gia thần để cô dâu lạy từ giả một lần nữa, nên có tên là lễ phản bái.
Nhìn chung, việc
hôn nhân theo nghi lễ truyền thống ở Nam bộ có phần nào được bảo lưu.
Nhưng theo tiến trình lịch sử, nó cũng đã có những biến đổi. Sau năm 1945 đã có
sự đơn giản hóa, chỉ có một ít người giữ theo nếp cũ. Trong hai thời kỳ kháng
chiến, ở vùng giải phóng, hôn nhân tiến hành phổ biến theo kiểu “lễ tuyên bố”
và bắt đầu từ năm 1970 đến nay, hôn lễ bắt đầu ngả sang khuynh hướng tây
phương: trai gái tự do kết hôn, tiệc tùng diễn ra linh đình, chụp ảnh, quay
phim trở thành nếp. Cô dâu được đi thẩm mỹ viện để phục, hóa trang. Người tham
dự lễ thì đa số mặc Âu phục. Tục xưa mai một dần và nhiều khi lệch chuẩn, do
hiểu sai ý nghĩa của lễ thức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét