Bút ký
Đối với những ai mới đến lần đầu mới cảm nhận cái không khí cuối năm
ở vùng nầy thật lạ. Một chút se lạnh đủ để người già khoác thêm chiếc áo ngoài,
để nhận biết năm cũ sắp qua. Nắng đã lên nhưng sương mù vẫn còn bàng bạc, lơ
lửng trên dòng nước đục lờ - cái thứ nước bùn được chắt từ trên ruộng xuống.
Bây giờ người ta sạ dề, nguyên cánh đồng được bơm cùng lúc, ào ạt nên nó có vẻ
đặc quánh và tanh tưởi mùi cá chết. Đó là cái rất đặc trưng mùi, quen thuộc, không
có nó sẽ thiếu đi sinh khí của ruộng đồng.
Đường vào xóm Cống Huế được trải bê tông phẳng phiu, nó lượn lờ uốn
theo con rạch dù nhiều lần cải tạo vẫn không xóa hết dấu vết do thiên nhiên tạo
tác. Nghe nói đó là con rạch do voi đi mà hình thành, nối từ sông Cũ chảy về
cánh đồng phía nam đến xã Tân Hội – nơi có những xóm dân cư có những cái tên
rất hình khối: xóm Vuông, xóm Dĩa, xóm Dài…Khó có thể hình dung thuở hoang sơ, cảnh
vật đôi bờ như thế nào, chứ bây giờ thì nhà cửa san sát, nhiều nhà tường mái
ngói. Hai bên đường nhiều quán cóc, biểu hiện sự chuyển đổi lao động nông nhàn,
trước đây sau vụ mùa người ta thường tập trung đươn đệm nhiều hơn là làm nghề
khác; “Về Mỹ Hạnh Đông nghe tiếng giã bàng” bây giờ chỉ còn trong ký ức.
Nhà bác Sáu Lê Quang Hanh nằm
trên bờ rạch. Ngôi nhà do con cháu Việt kiều về cất nên khá khang trang, đầy đủ
tiện nghi. Một cái sân kiểng rộng đằng sau cửa ngỏ với hàng kiểng uốn theo lối
xưa tam cang ngũ thường đủ để thấy chủ nhân của nó là một người mực thước.
Bác Hanh năm nay đã ngoại tám
mươi, thuộc hàng điệt lão thượng thọ nhưng còn rất minh mẫn. Cho nên sẽ không
ngoa khi nói rằng ông là cây cổ thụ cn sót lại của xóm Cống Huế, và hơn ai hết,
sông Cũ trong ông vẫn đầy ắp bao điều trăn trở. Ông nói, vị tiền hiền khai khẩn
làng Mỹ Hạnh Đông là ông Lê Quang Hiền, tức ông tổ của ông, người sống cách ông
đến 4 đời. Nghe ông nội kể lại, ông vốn là người ở miền ngoài vào vùng Tân Hội định
cư. Năm ông vào đây khẩn đất cũng chỉ khẩn được có 300 mẫu. Đất nầy thuộc cơi
ba, là đất bưng phèn nên rất xấu, vả lại không có nhơn công nên không dám khẩn
nhiều. Nhưng người xưa bảo “nhứt ruộng sâu, nhì trâu nái” nên cố gắng trụ lại.
Nhờ vậy mà mới có cơ ngơi ngày nay. Từ miệt đất giồng Tân Hội vốn là nơi cư trú
lý tưởng thời trước, muốn vào vùng Đồng Tháp Mười nầy phải bơi xuồng len lỏi
qua những con rạch ngoằn nghèo, hai bên cây cối rậm rạp, đồng rộng mênh mông
chỉ có năn lác, vài cụm tràm và cây cà na, có khi cả ngày mới đến được chỗ đất
được chọn, cắm bông tiêu mà khai phá. Đội quân tiên phong khai phá vùng nầy có
khi không phải định cư, chỉ cất tạm những căn chòi nhỏ, tránh nắng, đụt mưa, xong
mùa vụ thì rút quân về. Cái tên Xóm Chòi nổi tiếng ở Mỹ Hạnh Trung còn lưu lại
đến ngày nay. Từ Tân Hội vô xóm Huế hiện nay chỉ mất vài mươi phút phóng xe gắn
máy trên đường trải bê tông nên khó có thể hình dung cái gian nan thuở trước.
Tại sao gọi là cống Huế ? Ông Hanh kể, sau nhóm người khai phá đầu
tiên thì có mươi gia đình người Huế đến sinh sống ở vàm rạch nên mới gọi nơi
đây là cống xóm Huế. Hiện tại thì vàm cống Huế đổ ra sông Cũ, nhưng ngày xưa
chỗ nầy là một cái bưng rộng, không rõ tên, là nơi bắt nguồn của con rạch.
Người đi khai hoang phải “trở đầu” dòng nước bằng cách đào một cái cống ăn
thông với sông Cũ rồi dẫn nước ngược về phía nam ra các xã Mỹ Hạnh Trung, Tân
Hội. Và nhờ đó người ta vô xóm, vô ruộng dể dàng nhanh chóng hơn bằng con đường
Ba Rài –Sông Cũ.
Ba trăm năm qua, thật khó mà hình dung vùng đất nằm ở lòng chảo Đồng
Tháp Mười nầy xưa có bộ dạng như thế nào. Lần giở thư tịch, sách Gia Định thành
thông chí có nói đến đoạn sông đào này, gọi là Tranh Giang tân kinh - con kinh
mới của sông Tranh hay còn gọi là rạch Chanh, còn kêu là sông Cũ vì lẻ nó được
đào trước khi người mới đến ở. Hổng lẻ dân làng nầy đã có một lần xiêu tán.
Nghe Hanh nhắc đến tục cúng xiêu mồ lạc mả mà nổi băn khoăn được giải tỏa phần
nào nhưng để khẳng định thì phải tìm thêm tư liệu chứng minh.
Sông Cũ dài gần 25 cây số tính từ vàm La-cua đến ngọn rạch Chanh.
Theo thư tịch, con sông này do Đô uý Đặng Văn Trấn (Gia Định thành thông chí
của Trịnh Hoài Đức chép là Nguyễn Trấn) chỉ huy đào vào khoảng năm 1785. Ba
trăm năm là khoảng thời gian không ngắn. Chuyện lịch sử nếu không có tư liệu
thành văn thì cũng khó mà khẳng định được điều gì, nên chăng nhắc lại vài sự kiện:
năm 1776, Nguyễn Lữ đem quân vào đánh quân chúa Nguyễn ở Gia Định, Duệ tông
Phước Thuần sai Tống Phước Hiệp từ Bình Khang vào cứu viện, lại sai Đỗ Thanh
Nhơn mộ quân cần vương. Đỗ Thanh Nhơn chiêu mộ được Huỳnh Đức, Trần Búa, Đỗ
Hoành, Đỗ Ky, Võ Nhàn, Đỗ Bảng và 3.000 người từ Ba Giồng, tự xưng là Đông Sơn
thượng tướng quân kéo về Sài Gòn đánh Nguyễn Lữ. Lữ chạy về Quy Nhơn. Năm sau,
năm 1777 khi Nguyễn Huệ vào Gia Định, Duệ tông Phước Thuần thua trận, chạy tới
rạch Chanh thì Ánh đã đem 4.000 quân Đông Sơn tới ứng viện. Rạch Chanh bấy giờ
chưa có sông Cũ nối qua, nhưng có lẻ lớp người đi trước phải bỏ làng xiêu tán vì
trận đánh nầy. Nơi phát tích của Đông Sơn là Gò Lũy (Nhị Bình), chỉ cách vùng sông
Cũ chừng hơn chục cây số theo đường chim bay.
Năm 1781, sau khi Nguyễn Ánh giết Đỗ Thanh Nhơn thì thuộc tướng Đông
Sơn là Võ Nhàn và Đỗ Bảng trở về chiếm giữ Ba Giồng làm phản. Đầu năm 1785
Nguyễn Huệ đem quân vào phá tan quân Xiêm ở Rạch Gầm, Nguyễn Ánh lại chạy qua
Xiêm. Nguyễn Huệ rút quân về, để Đô úy Đặng Trấn ở lại giữ Gia Định, Ngài Đô uý nầy đã lo xa cho đào sông bao chặn
phía bắc vùng Nhị Bình, Gò Luỹ tạo thế bao vây đám tàn quân Đông Sơn đang đóng
tại Gò Lũy thời bấy giờ, mặc dù Đông Sơn sau cái chết của Đỗ Thanh Nhơn thì chỉ
còn là nhóm võ biền phiến loạn. Nhưng dù sao đây cũng là công trình hiếm hoi và
duy nhất mà nhà Tây Sơn để lại ở đất Nam bộ nói chung và vùng Đồng Tháp
Mười nói riêng trong lịch sử.
Lan man đôi điều trong sách vở để đi tới giả định rằng, có sông Cũ
làng xã ở khu vực này mới định hình. Làng xã miền Nam là thường tập trung ở ven rạch,
ven sông, nơi có điều kiện sản xuất và lưu thông. Cho nên các xã xung quanh
Sông Cũ chỉ mới hình thành sau năm 1785 đến đầu thế kỷ 19. Ông Lê Quang Hiền có
lẻ là người tiên phong, nhưng ít nhất cũng đến khi cuộc chiến Tây Sơn - Nguyễn
Ánh ngã ngũ. Có ai đó quan tâm tới công lao mở đất và thành quả khai thác Đồng
Tháp Mười của tiền nhân cũng nên lập một tấm bia hay cái gì đó ghi công ngài
Đặng Trấn.
+
Đình làng Mỹ Hạnh Đông nằm ở vàm Cống Huế. Người xưa đặt tên ấp là
Bình -Lương - Phú - Hội, thì ngôi đình đặt trên ấp Mỹ Phú với ước vọng giàu có.
Năm 1945, khi giặc Tây tái chiếm, ngôi đình phải dỡ bỏ để tiêu thổ kháng chiến.
Nền đình bây giờ được sử dụng làm chợ, một cái chợ điều hiu không phát triển vì
dân làng còn kiêng sợ nền đất thiêng, không dám vào mua bán. Ông Hanh đem 6 đạo
sắc phong của làng Mỹ Hạnh về nhà cất kỹ, hàng đêm đốt nhang cúng vái, trong lòng
đau đáu ước mong xin được cất lại đình để bảo tồn di sản tiền nhân:
“Sắc Mỹ Hạnh Bảo An Thành hoàng chi thần, hộ quốc tí dân, nẫm trứ
linh ứng. Minh Mạng nhị thập nhất niên, trị ngã Thánh tổ Nhân hoàng đế Ngũ tuần
đại Khánh tiết, khâm phụng bảo chiếu Đàm ân, lễ long đăng trật. Tứ kim phi ưng
Cảnh mạng miễn niệm thần hưu, khả gia tặng Bảo An Chánh trực chi thần. Nhưng
chuẩn Kiến Đăng huyện Mỹ Hạnh Đông thôn y cựu phụng sự. Thần kỳ tướng hựu, bảo
ngã lê dân. Khâm tai !
Thiệu Trị ngũ niên, thập nhất nguyệt, nhị thập thất nhật.
Đây là nguyên văn của một trong 6 đạo sắc nhà Nguyễn ban cho làng Mỹ
Hạnh, nó nhắc lại, trước khi dân làng chia ra ba làng Đông – Trung – Tây, làng
Mỹ Hạnh Đông là một làng lớn chi phối. Đạo sắc nầy được phong tặng vào ngày 27
tháng 11 năm Thiệu Trị thứ năm (tức 25-12-1845), sau khi làng xã đã chia, riêng
làng Mỹ Hạnh Đông thì nhận đến 6 lá, Mỹ Hạnh Tây, Mỹ Hạnh Trung mỗi làng nhận 2
lá. Phân tích đôi điều về lịch sử thông
qua đạo sắc, ông Hanh rưng rưng nước mắt, bây giờ tôi đã khá giả hơn trước
nhiều, lại có con cháu làm việc ở nước ngoài cứ gởi tiền về luôn, bỏ ra vài
trăm triệu để cất lại ngôi đình không khó. Nhưng mà...khó xin phép quá !
Thiệt là cái cảnh người giàu cũng khóc. Giàu mà làm gì khi ôm đống
vàng mà nửa đêm cứ giật mình thảng thốt: ta là ai, ta từ đâu đến ? Tiếc là
những người như ông Hanh bây giờ không còn nhiều.
Hồi năm 1915, khi mới đào đoạn kinh nối từ eo Mỹ Hạnh Trung với kinh
Tổng Đốc Lộc (tức kinh Nguyễn văn Tiếp ngày nay) mà Tây gọi là La-Cua thì đất
đai sông Cũ còn đậm màu sắc, phong thổ của vùng Đồng Tháp Mười. Những cái tên
Láng Biển, bưng Bồn bồn, bưng năn, đìa Rái, đìa Cần Bẩy…còn lưu lại đến nay
không phải không phản ánh cái hiện trạng đất đai thời bấy giờ. Láng Biển là tên
gọi của một lòng chảo khoảng vài ba chục mẫu tây còn sót lại do quá trình bồi
đắp không đồng đều của phù sa mà chưa có bàn tay con người tác động vào. Thuở
đó, mùa khô, láng Biển như một “phồn” trâu lớn toàn sình là sình. Đến mùa mưa,
nước đọng lại mênh mông, các loại sen, súng, năn, lác phát lên điểm tô mặt
nước. Chim trời về tụ hội, nhiều nhất là con gà đãy, một giống chim đã biệt
dạng ở vùng nầy từ hơn năm mươi năm trước.
Bưng bồn bồn hẹp hơn, xưa mọc
đầy rau bồn bồn. Loại cây họ rái, sống trên đầm lầy, hái về làm dưa chua, nấu
canh hoặc ăn sống với mắm kho, bây giờ trở thành món ăn đặc sản của các nhà
hàng sang trọng. Những kẻ thừa đạm dư mỡ
tìm đến món dân dã nầy, có khi để vỗ ngực xưng tên rằng ta không quên bản sắc
quê hương, rồi mị rằng đi đâu vẫn nhớ mùi bông súng mắm kho. Họ không biết rằng
bưng Bồn Bồn hiện tại chỉ còn lại cái tên, cũng như sông Cũ nằm trong ký ức ông
Hanh chỉ là cái nền đình và vài cây cà na còn sót lại.
Lịch sử giống như dòng sông miên man chảy, mang trên mình chuyện dâu
bể trăm năm. Sông không nhớ mà con người thì quá nhiều cái sự vô tình và bất
nghĩa. Sông không trách nhưng ghét con người hay mị, mượn danh nầy nọ mà tô son
trát phấn cái nhân cách đã hao mòn, huỷ hoại.
---o0o---
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét